|
Lm. Phêrô Trần Ngọc Anh
“Thượng
Đế thường vẽ đường thẳng bằng những đường cong!”. Câu
ngạn ngữ Ả Rập nổi tiếng này chợt đến với tâm trí, khi tôi
ngẫm nghĩ về hành trình ơn gọi của bản thân và cách thức
Thiên Chúa can thiệp trong cuộc đời mình. Nhìn lại 53 năm
cuộc đời, tôi xác tín rằng TC - trong chương trình của Người
- đã có cách làm, cách tính toán khác hẳn với con người
chúng ta:
1. Trước
tiên, Chúa vẽ đường thẳng bằng những đường cong,
trong cách thế lựa chọn các cộng sự viên gần gũi của Người.
Theo lẽ thường, khi chọn một ai để trao cho người đó một
nhiệm vụ quan trọng, người ta thường dựa vào các tiêu chí
quen thuộc. Hẳn con người này phải giỏi giang, thông minh,
nhiều tài năng nhất trong số những kẻ được chọn. Tuy nhiên,
đó lại không phải là cách chọn lựa của Chúa!
Lớp
chúng tôi được hình thành từ niên khóa 1967-1968, với một
con số tiểu chủng sinh đáng kể: 120 chú; chưa kể một số nhỏ
khác được nhập thêm vào những năm sau đó. Trong số hơn 120
chủng sinh, được phân làm 2 lớp, sau nhiều biến cố thăng
trầm của cuộc đời, của đất nước, có 5 anh em được chọn làm
linh mục, trong đó có tôi. Quả là khi nhìn đến cách chọn lựa
của Chúa, tôi khá ngỡ ngàng vì Người đã không lựa chọn theo
những tiêu chí của người đời. Đúng vậy, khi nhìn lại bản
thân mình, so với các các anh em khác trong lớp đã cùng sống
với nhau nhiều năm tháng dưới mái nhà Chủng viện, chúng tôi
thấy rốt cuộc Chúa đã không chọn những “ngôi sao”, nghĩa là
những người khôn khéo nhất, học giỏi nhất, nhiều tài năng
nhất, nhưng lại chọn làm cộng sự viên của Người những con
người chỉ ở mức từ “trung bình khá” đến “khá”.
Trong
trường hợp của tôi, Chúa lại can thiệp cách đặc biệt hơn.
Số là vào những năm 60 ở giáo phận Huế, có rất nhiều ứng
sinh muốn sống đời tu, mà khả năng đón nhận của Chủng viện
lại có hạn; vì thế, cứ đầu mỗi năm học, giáo phận lại tổ
chức một khoá thi tuyển. Vào niên khoá 67-68, khoảng 200 ứng
sinh được tập trung và thử sống đời tu tại Tiểu Chủng Viện
trong vòng một tuần lễ để các vị phụ trách đánh giá. Kết quả
năm đó được công bố và tôi không thấy tên mình trên “bảng
vàng”. Sau này, tôi mới biết mình “bị rớt” vì được đánh giá
là khá rụt rè, ít nói. Vì thế, tôi theo học ở trường Jeanne
d’Arc năm đó. Vào năm sau - niên khoá 68-69, nhờ sự bảo trợ
của cha Quản lý lúc đó, tôi được nhận vào Chủng viện và nhập
vào lớp 67, cùng với 3, 4 anh em khác nữa, mà không phải thi
cử gì cả. Kể từ đó, mọi việc diễn ra xuôi xắn và tôi đã đi
hết chặng đường đầu tiên. Cách nào đó, tôi đã được Chúa chọn
gọi bằng một tấm vé vớt!
Khi nhìn
Chúa vẽ đường thẳng bằng những đường cong như thế, tôi
nghĩ là Người muốn tất cả các anh em linh mục chúng tôi ý
thức một điều thật quan trọng: chúng tôi được chọn gọi không
phải do tài năng, do đức độ của bản thân, nhưng hoàn toàn do
bởi tình thương của Chúa. Chúa lại còn “liều lĩnh” chứa đựng
bao ân huệ của Người trong chính bản thân yếu hèn chúng tôi
- “những bình sành” - để từ đó ban phát chúng cho Dân của
Người. Thật vinh dự được trở nên phương tiện Chúa dùng để
bày tỏ tình thương và quyền năng của Người cho nhân loại.
Chúng tôi dành cả một đời để tạ ơn cũng chưa đủ!
Tôi lại
tiếp tục dõi mắt nhìn theo đôi tay của Chúa: Người đã làm
gì với các anh em còn lại trong lớp chúng tôi? – Thưa, Người
“để dành” các anh em, đặc biệt các “ngôi sao” của lớp để
tung họ vào cuộc đời. Chúa làm thế bởi vì thế giới này rất
cần đến họ, như đấu bột muốn dậy lên thì cần đến những nắm
men tốt. Chỉ những người sống ơn gọi Kitô hữu giữa đời mới
có thể thật sự xâm nhập vào tận mọi ngõ ngách của bệnh viện,
trường học, phố chợ, khu xóm để đưa vào đó các giá trị Tin
mừng; điều mà các linh mục, tu sĩ không dễ gì thực hiện.
Nhiệm vụ của những anh em đó nặng nề chẳng kém phận vụ của
các linh mục. Họ cũng là những cộng sự viên đắc lực của Chúa
trong chương trình cứu độ của Người trong đó, mỗi người được
trao một phận vụ riêng biệt. Chúa là Đấng rất mực khôn
ngoan, vì thế cách sắp xếp của Người luôn là cách xếp đặt
hay nhất, tốt nhất cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, mỗi chúng
ta, linh mục thừa tác cũng như linh mục cộng đồng, hãy “vui
với phận mình” và sống đến cùng ơn gọi làm chứng cho Chúa.
2.
Thứ đến, Chúa vẽ đường thẳng bằng những đường cong,
trong cách thông ban ân sủng và tình yêu của Người. Từ con
số hơn 120 anh em, ngày nay con số thành viên của đại gia
đình HT 67 hẳn đã lên đến vài trăm người. Có những thành
viên (phu nhân hoặc con cái của các anh em) tuy mới lần đầu
đến với các buổi họp mặt, nhưng lại cảm thấy dường như giữa
người cũ và người mới, đã có sự quen biết từ lâu. Có một mối
dây lạ kỳ nào đó đã không chỉ liên kết cách chặt chẽ các anh
em trong lớp, mà còn làm cho mọi thành viên của gia đình gắn
bó với nhau. Mối dây đó không chỉ là tình bè bạn của những
con người đã từng sống, học hành bên nhau dưỡi một mái
trường, mà chính yếu là tình hiệp thông của những người -
trong cùng đại gia đình đức tin – đã chia sẻ với nhau lý
tưởng đời dâng hiến. Lý tưởng đó ngày nay vẫn không thay
đổi. Sự khác biệt nằm ở chỗ mỗi người sống lý tưởng đó trong
những lãnh vực khác nhau, theo bậc sống của mình.
Cách
thức vận hành và luân chuyển tình yêu, sự sống trong đại gia
đình đức tin này khá độc đáo: tình yêu và ân sủng được Thiên
Chúa thông ban cho một người lại sẽ qua chính con
người đó đến với mọi thành viên khác. Khi thấy một anh em
thành đạt trong cuộc đời về mặt sự nghiệp hoặc tiền bạc, tôi
thấy như chính mình được thành công, được trân trọng. Tôi
vẫn loáng thoáng nghe các anh em, các chị em kháo nhau: “Năm
cha của lớp mình!”. Những từ “của lớp mình” được thốt lên
như để cho thấy ân sủng Chúa ban xuống trên các linh mục
cũng là ân sủng Người ban cho các gia đình anh em. Ngược
lại, tình yêu và ân sủng mà gia đình các anh em có được cũng
là những gì mà các anh em linh mục đang cảm nghiệm trong
cuộc sống. Ai cũng như được thôi thúc phải sống tốt hơn “vì
các cha”, “vì các anh em đã lập gia đình” trong lớp.
Dĩ nhiên, sự hiệp thông trong đại gia đình đức tin này không
chỉ là sự thông chia những thành công, thuận lợi, hạnh phúc,
niềm vui mà còn là sự liên đới với nhau trong những mất mát,
khổ đau, trong những ưu tư, lo lắng. Sự ra đi của một người
vợ, một đứa con, sự trục trặc trong quan hệ vợ chồng của một
gia đình anh em cũng là nỗi xót xa, trăn trở của các linh
mục, của mọi thành viên khác trong đại gia đình. Cách vận
hành của tình yêu và ân sủng trong gia đình Giáo Hội lạ lùng
như thế đó. Đó là lời giải thích tại sao, sự liên đới giữa
những người cùng chung một mái trường xưa cách đây mấy mươi
năm lại là mối tương quan đẹp nhất trong các tương quan mà
chúng ta có với các tập thể khác trong đời.
3. Sau
cùng, Chúa vẽ đường thẳng bằng những đường cong,
trong cách can thiệp vào các công việc, trách nhiệm của tôi
trong hiện tại. Từ 4 năm nay, tôi được dự phần vào công tác
huấn luyện các chủng sinh, với tư cách thành viên của Ban
Giám Đốc, tại Đại Chủng Viện Sao Biển – Nha Trang. Trong quá
trình làm việc, cũng như các cha trong Ban Giám Đốc, tôi
thấy mình phải chu toàn một trách nhiệm dường như vượt quá
khả năng.
Khó khăn
trước tiên nằm ở khoảng thời gian các chủng sinh được đào
tạo. Trước năm 1975, để có thể làm linh mục, người ứng sinh
được rèn luyện, uốn nắn trên dưới 15 năm: 7 năm Tiểu Chủng
Viện, 7 năm Đại Chủng Viện, 1 hoăc 2 năm giúp xứ. Chừng đó
thời gian xem ra đã đủ để hình thành nền tảng căn bản của
đời sống một linh mục tương lai. Từ năm 1975 đến nay, do
hoàn cảnh đặc thù của đất nước, Tiểu Chủng Viện không còn
tồn tại ở các giáo phận. Nơi chốn chính thức mà người ứng
sinh linh mục được huấn luyện là Đại Chủng Viện. Thời gian ở
chỉ có vỏn vẹn 6 năm cọng thêm 2 năm giúp xứ. Tám năm huấn
luyện; chừng đó thời gian xem ra không đủ để xây dựng nền
móng căn bản về các mặt nhân bản, tri thức, thiêng liêng và
mục vụ nơi người ứng sinh linh mục!
Khó khăn
thứ hai là việc huấn luyện được khởi đầu lúc tuổi các ứng
sinh đã lớn. Ai cũng biết là việc tạo hình cây thuận lợi
nhất là uốn nó lúc còn nhỏ; chứ khi cây đã lớn thì công việc
trở nên khó khăn gấp bội. Ngày nay, phần lớn các chủng sinh
vào Chủng Viện, sau khi đã tốt nghiệp đại học, chứ không
phải là những cậu bé 12, 13 tuổi như trước đây. Điều đó có
nghĩa là khi vào Chủng Viện, bên cạnh những điều tích cực,
họ còn mang theo những thói quen, nếp sống ở đời, kể cả
những dấu ấn của “thời đại xã hội chủ nghĩa”. Tuy đã cố gắng
hết mình, cùng với các cha trong Ban Giám Đốc trong công tác
huấn luyện, tôi vẫn thấy không hài lòng về công việc của
mình và không thật sự an tâm về các tân linh mục.
Dip Hội
Ngộ Hoan Thiện 67 năm nay đã giúp tôi có lòng tin tưởng
và một cái nhìn mới mẻ về vấn đề này. Trong số các anh em
của lớp, có người đã ăn cơm nhà Chúa đến 8, 9 năm, có người
5,7 năm, có người chỉ vỏn vẹn 1, 2 năm. Tuy nhiên, ngày hôm
nay, khi gặp lại nhau sau gần 40 năm xa cách, tôi thấy tất
cả các anh em đều đã “thành nhân” và “thành công” trong đời.
Xem ra ai cũng là những gia trưởng Công giáo biết sống và xử
sự đúng mực. Có anh em tâm sự là tuy chỉ ở chủng viện có vài
năm, nhưng ngày nay, trong những lần tiếp xúc gặp gỡ, người
ta thường nhận xét là “nét nhà tu” vẫn không phai nơi người
anh em đó. Thật lạ kỳ, một hai năm vắn vỏi trong Chủng Viện
đó lại đã hình thành nên nét tính cách cơ bản của một con
người. Chắc hẳn đó không phải là công trình của loài người,
mà là việc làm của Chúa Thánh Thần.
Quả vậy,
trong việc huấn luyện các ứng sinh linh mục, tác nhân đầu
tiên và chính yếu là Chúa Thánh Thần, tác nhân quan trọng
thứ hai là chính bản thân người ứng sinh; sau đó mới đến
vai trò của các nhà đào tạo. Như thế, Chuyến Hội Ngộ HT 67
đã nhắc nhở tôi một điều quan trọng: trước đây, trong quá
trình huấn luyện các chủng sinh, tôi đã quá cậy dựa vào bản
thân mà quên đi vai trò chính yếu của Chúa Thánh Thần – Đấng
có khả năng biến đổi mọi thụ tạo nên mới. Chúa Thánh Thần có
khả năng uốn nắn và hình thành những con người mới, theo
cách của riêng Người, vượt xa trí hiểu và sức tưởng tượng
của loài người chúng ta. Những suy nghĩ này đem lại cho tôi
sự bình an và tin tưởng. Tôi như được nhắc nhủ: đừng làm
thay công việc của Chúa Thánh Thần. Hãy dành khoảng trống
cho Chúa Thánh Thần hoạt động và góp phần vào đó bằng việc
hết lòng hết dạ chu toàn bổn phận được trao. Hãy tin tưởng
và yêu mến các chủng sinh, các tân linh mục – những đối
tượng của tác động Thánh Thần trong lịch sử và thời gian. Họ
không thể không ngày một biến đổi nên mới dưới sức mạnh của
Ân sủng và Tình yêu!
Gia đình HT67
ngày "HỘI NGỘ THẦY TRÒ" 22-7-2009, tại Trung Tâm Mục Vụ Huế |