Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng. ĐHY PX Nguyễn Văn Thuận [10]

Thứ bảy - 13/12/2025 16:01
Này, người lữ khách hôm nay thân mến! Nơi đây không cống hiến cho con những lời khuyên lơn răn bảo, cũng không thay con suy ngắm. Nhưng đây chỉ là những kinh nghiệm sống của các bậc Thánh và các người Thánh, "Những người lữ hành trên đường hy vọng". Họ có thật và họ sống thật!

29- Gian Khổ

1. "Nếu không có những tháng ngày gian khổ..."

* Ðường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được.
Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô... đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen (ÐHV 693).

* Giữa những thử thách, con hãy nghĩ gian khổ sánh sao được với nước Thiên Ðàng. Ðó là phương pháp của Chúa: "Phước cho ai khó nghèo, ai khóc lóc, ai chịu bắt bớ... vì Nước Thiên Ðàng là của mình vậy" (ÐHV 695).

* Hoạt động con bị hạn chế, danh tiếng con bị lu mờ, chống đối dồn dập tứ phía! Hãy đợi chờ giờ của Chúa: "Cây nào tốt, Cha Ta sẽ tỉa"; cành non sẽ đâm chồi, nở hoa, mang trái nặng trĩu hơn (ÐHV 698).

* Không có cơn thử thách nào lớn lao bằng cơn thử thách của Chúa Giêsu trên thánh giá, lúc xác hấp hối, tâm hồn lại cảm thấy chính Ðức Chúa Cha như cũng bỏ mình, Chúa Giêsu phải nói lên nỗi khổ e chề nhất trong đời Ngài: "Sao Cha bỏ con!" Hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu trong những giây phút hãi hùng, tăm tối nhất của đời con. Bình an sẽ trở lại và con sẽ nói được như Chúa Giêsu: "Con phó mạng sống con trong tay Cha!" (ÐHV 715).

Năm 1953...

Giáo Hội Ba Lan rùng mình trước tin Ðức Cha Baraniak bị bắt.

Một tháng sau, vào một đêm khuya tĩnh mịch, Ðức Hồng Y Wyzynsky nghe có tiếng chuông reo, ngài vội vã ra mở cửa. Con chó trong nhà nhác trông thấy có nhiều người lạ lố nhố ngoài hiên liền nhảy vồ ra ngoặm ngay vào cánh tay một người. Ðức Hồng Y bình tĩnh lấy thuốc rịt vết thương lại và khoác lên mình người lạ một chiếc áo choàng cho y đỡ rét.

Khi biết rõ ý định của họ, ngài xin được sang chào ông cố của ngài đang ở phòng bên cạnh. Họ lắc đầu. Ngài bước lên một xe bịt bùng và đoàn xe bắt đầu chuyển bánh trong đêm...

Sau hai năm cầm tù, ngài còn bị quản chế thêm nhiều tháng ngày nữa tại nhiều nơi trên khắp lãnh thổ Ba Lan. Trung bình cứ mỗi tháng, ngài đều "được" thay đổi nơi cư trú 2,3 lần, vì nghe ngài ở tại đâu, giáo dân khắp nơi đều ùn ùn kéo đến và mặc dù không thấy mặt ngài, họ cũng vây quanh vườn đọc kinh cầu nguyện cho ngài rồi ra về. Thế là chỉ trong vòng mấy năm, ngài hân hạnh được ở khắp đó đây trong nước.

Sau những biến động vào mùa thu năm 1956, ngài được trở về giữa niềm hân hoan, kính mến và tin tưởng của toàn thể giáo hữu. Năm 1957, Ðại Hội Thánh Thể được tổ chức long trọng tại thủ đô Varsovie, giáo phận của ngài, hơn nửa triệu giáo dân đã đến tham dự.

Ðức Thánh Cha Piô XII đã trao cho ngài đặc quyền được thay thế Ðức Giáo Hoàng cắt cử các Giám mục khắp nước Ba Lan. Và ngài đã làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan từ đó đến nay. Ai ai cũng gọi ngài là "con người của Chúa Quan Phòng", vì ngài đã sáng suốt hướng dẫn Giáo Hội Ba Lan và tạo nên những mối quan hệ tốt đẹp với nhà nước của quốc gia ấy. Có nhiều người, nhất là các phóng viên báo chí, muốn tò mò tìm hiểu các chi tiết của những ngày gian khổ trong đời ngài, đã được ngài trả lời gọn ghẽ: "Tôi đã hiến dâng tất cả cho Mẹ Maria. Tôi không muốn nhắc lại quá khứ. Ta hãy nhìn thẳng vào tương lai mà tiến lên".

Trong bài diễn văn đáp lời chúc mừng của Ðức Hồng Y Wyzynsky đại diện cho Giáo hội Ba Lan, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã khai mở bằng một giọng đầy tri ân trìu mến: "Thưa Ðức Hồng Y, nếu không có những tháng ngày gian khổ của Ðức Hồng Y, thì hôm nay không thể có một người con của Giáo Hội Ba Lan ngồi trên tòa Phêrô được".

2. Thầy đi đâu?

* Trong giờ Tử Nạn, Chúa đem theo những Tông Ðồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không? (ÐHV 699)

* "Ai thuê tôi săn sóc bệnh nhân một vạn đồng một ngày, tôi cũng không nhận!", một bác sĩ nói. - "Thưa bác sĩ, nữ tu đáp, phần tôi, nếu không phải vì mến Chúa, một triệu đồng một giờ tôi cũng không chịu. Nhưng vì Chúa tôi sẽ ở đây đến chết" (ÐHV 709)

* Gian khổ là cơm bữa của đời người. Nhưng với người công giáo, cuộc sống của họ "loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại". Con có sung sướng khi đọc lời ấy không? (ÐHV 710)

* "Con có uống nổi chén đắng của Thầy không?" Con hãy thưa: "Con tình nguyện uống chén đắng đến giọt cuối cùng, vì là chén đắng của Thầy, vì Thầy đã uống trước con!" (ÐHV 716)

* Gian khổ nặng nề nếu con khiếp sợ trốn lánh, gian khổ dịu dàng nếu con can đảm chấp nhận (ÐHV 717)

Cách đây chừng 20 năm, người ta đã dựa vào cốt truyện trong tác phẩm "Quo vadis?" (Thầy đi đâu?) của văn hào Công giáo Ba Lan Sienkiewez (1846-1916), giải Nobel 1905 để đóng một cuốn phim nổi tiếng khắp thế giới cũng mang tựa đề ấy.

Từ đâu có cốt truyện ấy? Ai đã nói tiếng Thầy đi đâu?

Theo truyền khẩu giáo dân thời Hội Thánh sơ khai người ta biết được rằng, vào các thế kỷ I-IV, các hoàng đế Roma đã ra công bách hại đạo Chúa hết sức hung hãn: nào là đâm chém, nào là đóng đinh thập tự, nào là cho thú dữ ăn thịt ở nơi hí trường Colisê để nhân dân thỏa thích thưởng ngoạn, nào là buộc vào cột trụ, tẩm dầu rồi đến đêm châm lửa đốt cháy vùn vụt như bó đuốc. Thật muôn phần khủng khiếp!

Phêrô, thủ lãnh của Hội Thánh, lúc ấy cũng bị truy nã gắt gao theo lệnh của hoàng đế Nêron. Vì thế người có ý định tạm lẩn trốn ra khỏi thành Roma một thời gian, cho qua cơn sóng dữ. Một đêm nọ, người ta trông thấy một bóng dáng đàn ông đang hồi hộp lần bước trên con đường Appia. Lúc gần đến cửa Capena, bỗng nhiên ông ta đứng khựng lại! Từ xa một người đang tiến thẳng về phía ông. Ông dụi mắt rồi quá đỗi vui mừng, Phêrô ôm chầm lấy người ấy và hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu? Thì ra người ấy là Chúa Giêsu, tội nhân bị xử mấy mươi năm về trước. Ðáp lại câu hỏi của Phêrô, Người ôn tồn nói: Phêrô vì con sợ gian khổ, con định đào tẩu, nên Thầy phải vào thành Roma để chết thay cho con". Nói xong Chúa Giêsu biến mất... Phêrô hiểu ý Thầy bèn quay gót trở lại thành Roma, chấp nhận mọi gian khổ, củng cố đức tin của anh em giáo hữu, xông pha giữa muôn nghìn nguy hiểm cho đến năm 67 thì bị bắt và bị tống giam ở nhà ngục Tullianum. Theo lưu truyền, Phêrô đã cảm hóa được hai người lính canh ngục tên là Processô và Martinian, cả hai đều được rửa tội và được tử vì đạo. Rồi sau đó, thánh nhân cũng được diễm phúc đi lại con đường thập giá của Thầy, không phải đường lên Núi Sọ ở Giêrusalem mà là đường đến hí trường Caligula, trên đồi Vatican. Nhưng khi đến nơi, vì cảm thấy mình không xứng đáng được chết như Thầy, nên ngài xin phép cho được đóng đinh ngược, đầu chúi xuống đất.

Ðể kỷ niệm nơi Chúa hiện ra cho Phêrô, giáo hữu đã xây cất ngay tại chỗ đó một nhà thờ mang tên: "Quo vadis, Domine?"

3. Ðóa hồng đầy thử thách

* Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh (ÐHV 702).

* Trên Thiên Ðàng, con sẽ hối tiếc: "Phải gì tôi đã có dịp mến yêu, chịu khổ vì Chúa hơn!" (ÐHV 704).

* Ðau khổ nhất là do những người phải thông cảm và có phận sự bênh vực con gây nên. Hãy hiệp với Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh Giá: "Lạy Cha, sao Cha bỏ con!" (ÐHV 705).

Thánh nữ Rosa Lima (1586-1617) đã theo gương can đảm của thánh Catarina thành Sienna để sống một đời hy sinh khổ hạnh, cầu nguyện và bác ái. Nhưng cuộc đời chị thánh đặc biệt chói lòa nhờ một cơn thử thách gian khổ rất nặng. Chị sống vỏn vẹn có 31 năm thế mà đã phải trải qua một tình trạng khô khan nguội lạnh trong đời sống thiêng liêng kéo dài suốt 15 năm, mặc dù chị rất đạo đức! Chị đã phải luôn luôn chiến đấu trong tối tăm mù mịt, như thể bị Chúa bỏ rơi. Chị phải liên lỉ chống trả với những cơn cám dỗ nặng nề lôi kéo chị đến bờ hố sâu chán nản, tuyệt vọng: thực là một vực thẳm còn khốn nạn hơn cả sự chết! Ðó là chưa kể chị phải mắc một thứ bệnh nặng và gặp nhiều khốn khó trong gia đình.

Nhưng chị đã khiêm nhường và bền đỗ sống trong đức tin. Suốt cả cuộc đời, Thánh Thể là lương thực duy nhất nuôi sống chị. Sau cùng Chúa đã ban triều thiên sáng chói cho chị: Rosa thành Lima trở thành thánh bổn mạng của toàn thể nhân dân Nam Mỹ.

4. Nghệ thuật sống an bình trong gian khổ

* Trong gian khổ có điều con nên tránh:
- Ðừng điều tra "tại ai"? Hãy cám ơn dụng cụ Chúa dùng thánh hóa con.
- Ðừng than thở với bất cứ ai. Chúa Thánh Thể, Ðức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.
- Khi đã qua, đừng nhắc lại và trách móc, hận thù. Bỏ quên đi, không nhắc lại bao giờ và nói Alleluia! (ÐHV 700).

* Con tức tối sao không biện minh được với kẻ thù. Ðừng lạ gì: "Họ sẽ giết các con như đã giết các tiên tri" (ÐHV 701).

* Nếu thể xác con căng thẳng, hãy tạm nghỉ. Gác bỏ các lo âu, con sẽ lấy sức lại và công việc kết quả hơn. Chấp nhận giới hạn sức khỏe của con là can đảm, biết săn sóc là khôn ngoan (ÐHV 707).

* Thời gian là một yếu tố quan trọng; khi một biến cố xảy đến, đừng hấp tấp lúng túng. Hãy suy nghĩ nhẫn nại đợi chờ, lắm lúc sau một đêm, con sẽ thấy sự việc khách quan và sáng suốt hơn (ÐHV 708).

* Hành động tốt và thinh lặng (ÐHV 711).

Một tâm hồn thánh thiện nọ, sau khi trải qua bao tháng ngày gian khổ cũng như những giây phút thành công, đã để lại những lời nhắn nhủ, đồng thời cũng là những kinh nghiệm sống rất đơn sơ và hữu ích sau đây. Chúng ta nên suy niệm và thực hành:

* Nghệ thuật điều khiển lưỡi.

Thánh Kinh có nói: "Miệng người khôn ngoan cất trong con tim. Trái tim kẻ dại bày ra ngoài miệng" (Huấn Ðạo 21,26).

Hãy chuộng nghe hơn là nói, vì im lặng quý hơn nói. Nói ít thì khôn hơn nói nhiều. Nói ít mà nói đúng, nói hay thì hay hơn là nói nhiều nhưng nói bậy. Hãy chú ý: nói đúng vấn đề thì hơn là nói luôn miệng.

Những luật sau đây giúp điều khiển lưỡi chúng ta:

- Suy nghĩ trước khi nói.
- Biết nói bằng sự im lặng.
- Cầm giữ miệng lưỡi khi trái tim đang xao xuyến.
- Im lặng khi thấy mình quá ưa nói.
- Nói sau kẻ khác.
- Ðừng bao giờ nói chống đối kẻ khác.
- Bao giờ cũng nói tốt kẻ khác.
- Ðừng bao giờ tìm cách tự bào chữa.
- Lúc nào cũng nói năng khiêm tốn.
- Không bao giờ nói trái sự thật.
- Luôn luôn thận trọng trong lời nói.
- Ðừng bao giờ nói theo hứng.

- Im lặng đừng nói những lời chua cay khi trái tim bối rối và bị kích thích. Trong câu chuyện, "khi gió thổi bốc lên thuận chiều", hãy cầm hãm khuynh hướng "trút hết gan ruột ra".

- Cầm mình đừng nói những sai sót của bản thân. Biết giới hạn như vậy sẽ tạo được một nguồn hạnh phúc mới mẻ.

- Hãy kiểm soát giọng nói của bạn.
- Ðừng tìm biết tin tức vì tò mò.

- Hãy nhớ lấy điều này là đừng bao giờ phàn nàn về chuyện gì, đừng chỉ trích ai, đừng than trách hoàn cảnh nào, cũng đừng phê bình sự vật gì hết.

- Ðừng nói về mình, cũng đừng nói về những việc riêng mình.
- Nếu muốn nói về mình, thì chỉ tâm sự với một số rất ít người thôi.

* Im lặng là bài học hay nhất.

- Im lặng khi tức bực.
- Im lặng khi bị chỉ trích.
- Im lặng lúc bị từ chối.
- Im lặng lúc thất vọng.
- Im lặng lúc gặp cảnh vô ơn.
- Im lặng khi cảm thấy lòng ghen ghét.
- Im lặng lúc bị người khác ghen ghét.
- Im lặng lúc bị phản bội.
- Im lặng khi được thỏa mãn.
- Im lặng lúc đau khổ mọi nỗi.

Hình như không có thực hành nào giá trị bằng sự im lặng. Im lặng cho ta thấy một sức mạnh tiềm tàng. Im lặng thu hút được sự tín nhiệm. Im lặng bảo đảm cho ta được sự kính trọng. Người dè dặt đúng mức là con người có dáng huyền bí, biểu lộ một vẻ tuyệt đẹp của tâm hồn.

Im lặng còn có một tính cách tích cực nữa. Nhiều khi im lặng không nói lại là câu trả lời hữu hiệu nhất, thuyết phục lòng người hơn trăm bài hùng biện.

* Cố gắng hơn tí chút.

- Nhẫn nại hơn tí chút để chấp nhận một người không hợp với tôi chút nào, nhưng tôi lại bó buộc sống với.

- Kiên quyết hơn tí chút để tiếp tục công việc này mà bổn phận đời tôi làm tôi cảm thấy chán ngấy.

- Khiêm nhường hơn tí chút để ở lại nơi Chúa dẫn dắt tôi tới, nhưng không mảy may phù hợp với ước vọng và chương trình của tôi.

- Biết lẽ phải hơn tí chút để chấp nhận người khác cùng với bản tính của họ, thay vì đòi hỏi họ rập theo khuôn khổ tôi thích.

- Khôn ngoan hơn tí chút để đừng làm phiền lòng người khác và ít nhúng tay vào công việc của họ.

- Can đảm hơn tí chút để chịu dựng một biến cố đột ngột làm tôi mất bình an cách thâm sâu.

- Tươi tỉnh hơn tí chút để không tỏ ra tôi bị trái ý.

- Bỏ mình hơn tí chút để cố gắng tìm hiểu tư tưởng và cảm nghĩ của người khác.

Trên hết mọi sự, cầu nguyện hơn tí chút để kết hợp với Chúa trong trái tim tôi và bàn hỏi với Ngài.

5. Gian khổ của các thánh

* Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Ðừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại (ÐHV 691).

* Chúa Giêsu đến đâu cũng có một số người sống chết cho Ngài, và cũng có một số người quyết giết chết Ngài. Sao con muốn mọi người yêu con? Sao nao núng khi có người ghét con? (ÐHV 692).

* Khi đau khổ cực độ, con hãy nhìn lên Thánh Giá, ôm choàng lấy Thánh Giá và con sẽ thinh lặng đứng vững như Ðức Mẹ (ÐHV 694).

* Người ta vô ơn với con! Con làm ơn để họ cám ơn sao? (ÐHV 696).

* Con than phiền vì kẻ nghịch của con liên lỉ chen lấn, giành giật trở ngại công việc tông đồ của con? Sao con quên "Cây lúa và cỏ lùng"? Lúa cứ vươn lên! (ÐHV 697).

* Gian nan luyện người Chúa đã muốn cho chịu đau khổ để thông cảm với những người đau khổ. Như Chúa đã cầu cho nhân loại với tiếng thống thiết và nước mắt (ÐHV 703).

* Con phản đối: "Bất công!" - Lòng con tức tối trước việc xảy đến gây khổ tâm cho con. Hãy nghĩ lại xem: Chúa Giêsu đã làm gì nên tội mà phải chịu đóng đinh? Như thế có công bình không? (ÐHV 712).

* Hoa hồng, hoa huệ tốt thơm, rực rỡ bao lâu phân tro màu mỡ biến thành hương sắc. Việc tông đồ cũng tiến mạnh khi gian khổ được đổi thành yêu thương (ÐHV 713).

* Thử thách gian khổ là "giấy phép theo Chúa" để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá..." (ÐHV 714).

Mỗi vị thánh đều có chịu gian khổ cách này hoặc cách khác. Môn đệ không thể khác Thầy!

Tất cả 12 Tông đồ đều đã theo gương Thầy Chí Thánh chịu hình khổ Tử đạo.

Tất cả các Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô suốt 300 năm đầu tiên đều đã hy sinh mạng sống vì Chúa.

Thánh Athanasiô (295-373) trong những giây phút đen tối nhất của cuộc đời, vẫn không hề mảy may khiếp sợ trước uy quyền của hoàng đế, không một chút chịu theo những ý kiến trái ngược của các vị Giám mục chạy theo bè rối Ariô ở Công đồng Nikêa năm 325, và cũng không lo phải chịu cực hình gian khổ. Suốt 45 năm trời trong chức vụ chủ chăn, ngài đã phải lưu đày 5 lần tất cả, đúng như lời tiên báo của thánh Pakôme về ngài lúc ngài còn ở trong sa mạc Thébaides: "Athanasiô cột trụ và là đèn pha của Hội Thánh sẽ hứng chịu nỗi đoạn trường". Quả vậy, bị rượt đuổi và để trốn tránh các cuộc bách hại, có lần ngài đã phải ẩn mình trong một hang động suốt 5 năm. Lần khác, kẻ thù công bố một giá rất cao cho những ai chặt được thủ cấp ngài, khiến ngài phải chạy trốn suốt đêm trên một chiếc thuyền con dọc theo bờ sông Nil, Ai Cập. Hoàng đế Constance, kẻ bội giáo Julien, Valens và các kẻ thù khác đều nghĩ: Nếu tóm cổ được Athanasiô họ sẽ tiêu diệt được đức tin của người Công giáo một cách dễ dàng. Rồi lúc đã 71 tuổi đầu, ngài còn ẩn núp trong ngôi mộ thân phụ ngài ròng rã suốt bốn tháng. Nhưng dù ở đâu, thánh Athanasiô vẫn luôn gần gũi tiếp xúc với các giáo dân động viên họ sống kiên cường trong một niềm tin đích thực...

Thánh Hilariô (315-369), Giám mục giáo phận Poitiers tại Pháp, bị nhóm lạc giáo Ariô dùng mưu thuyết phục hoàng đế Constance đày sang xứ Phrygia (Cận đông), vì ngài đã dám triệu tập một Công đồng địa phương để chống họ. Trong cảnh cô đơn tù tội, ngài đã thốt lên: "Người ta có thế đày ải các Giám mục một cách êm thắm, nhưng họ có thể đày chân lý được không?". Suốt thời gian lao tù ngài vẫn hướng dẫn giáo phận của ngài qua thư từ, giáo huấn, rồi còn viết được bộ tổng luận 12 cuốn về Chúa Ba Ngôi, chống lại bè rối Ariô nữa. Bốn năm sau, tại Ðại hội Giám mục ở Séleucie (một thành phố trong xứ Phrygia), ngài đã thuyết phục được toàn thể các Giám mục theo lập trường của Hội Thánh. Phe lạc giáo sợ bị thất bại chua xót nên đã bàn với hoàng đế cho ngài hồi hương.

Thánh Cyrillô thành Giêrusalem (315-386) đã thức tỉnh các Kitô hữu trước hiểm họa lạc giáo Ariô. Nhờ có trí thông minh, ngài đã bảo vệ Thần Tính của Chúa Kitô, chống lại những lý luận tinh vi nhưng sai lạc của họ. Phẫn uất vì thấy ngài là một lợi khí sắc bén làm cho hàng ngũ họ tan rã, họ đã tìm cách trục xuất ngài và lưu đày ngài nhiều phen, tổng cộng tất cả là 16 năm. Nhưng rồi đức tin, tài hùng biện và phẩm cách anh hùng của ngài tại Công đồng Constantinopoli (381) đã làm cho lạc giáo Ariô bị kết án lần thứ hai và biến ngài thành một trong những vị bảo vệ đức tin vĩ đại.

Thánh Eusêbiô Vercellôsi (315-371), Giám mục giáo phận Vercelli (Ý), cũng vì trung thành với giáo lý chân chính của Hội Thánh mà bị vua Constance II (theo lạc thuyết Ariô) đày sang Scythopolis từ năm 335 đến 362. Ngài đã chịu đói khát, nhục hình đủ cách, nhưng luôn luôn tỏ ra trung thành với đức tin và thường xuyên thư từ liên lạc với các tín hữu để nâng đỡ tinh thần của họ.

Thánh Gioan Thánh Giá (1542-1591), người Tây Ban Nha, đã nỗ lực giúp thánh Têrêxa thành Avila canh tân Dòng Carmêlô (nữ và nam). Nhưng thoạt tiên, cả nhà dòng đều chống lại cuộc cải cách của ngài. Năm 1577, ngài bị giam trong một căn phòng ở Talède và đã trốn thoát sau đó 9 tháng. Trong thời gian ấy, ngài đã sáng tác những vần thơ thần bí nổi tiếng nhất. Về sau cuộc cải cách của ngài được chấp thuận, ngài được giao phó nhiều chức vụ trong nhà dòng. Nhờ có đức từ bỏ trọn hảo và một lòng yêu mến Thánh giá nồng cháy, đời đời ngài đã nên như một ngọn lửa chiếu soi trong đêm tối, hướng dẫn nhiều người tiến lên đỉnh toàn thiện. Châm ngôn luôn luôn xuất hiện trên môi miệng ngài là "Toàn Hiến". Ngài đã cho chúng ta một quy luật sống sau đây: "Nếu bạn muốn đạt đến việc chiếm hữu Chúa Kitô, bạn đừng bao giờ tìm kiếm Người với đôi vai vắng bóng Thánh giá". Ngài còn viết: "Nếu nơi nào không có tình yêu, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa tình yêu vào đó và chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của nó. Và khi cuộc đời chấm dứt, chúng ta sẽ được xét xử căn cứ vào tình yêu". Các tác phẩm thần bí của ngài đã làm cho ngài trở thành tiến sĩ của đời sống chiêm niệm.

Thánh nữ Elisabeth hoàng hậu nước Hungari (1207-1231). Tuy mang tiếng là vợ của một ông vua, nhưng cuộc đời cũng đầy gian lao đau khổ. Khi chồng bà là vua Louis từ trần trong một cuộc thánh chiến (1227) thì Henri là em ông lên tiếm vị. Vì sợ mất ngôi, ông đã trục xuất mẹ con bà ra khỏi hoàng cung. Bà phải bơ vơ tạm trú trong một chuồng ngựa mục nát và còn đi ăn xin để nuôi ba con nhỏ (lúc ấy bà mới 20 tuổi). Tuy đắng cay khổ nhục, bà vẫn vui lòng chấp nhận để nên giống Chúa. Về sau, lúc đoàn quân viễn chinh hồi hương, nhân dân bắt buộc Henri phải trả lại quyền bính cho người cháu, nên thánh nữ đưa con cái trở lại triều đình. Nhưng rồi vì muốn luôn mãi sống khó nghèo, nên ngài khoác lên mình bộ tu phục Dòng Ba Phanxicô, sống thinh lặng và cầu nguyện cho đến ngày trút hơi, lúc mới 24 tuổi.

* Không phải con chỉ can đảm nhẫn nại, nhưng giá trị cứu chuộc của đau khổ rất lớn lao, nếu con hiệp với sự thương khó Chúa Giêsu (ÐHV 706).

Thánh Gioan Maria Vianney không chỉ chịu nhiều hình khổ gây nên do ma quỷ mà còn phải gian nan hơn nữa vì anh em khinh rẻ nhạo báng, chỉ trích công việc tông đồ của ngài.

Một đêm kia, ngài nghe cả nhà rung chuyển như bị động đất, chung quanh có tiếng giày đi thình thịch, ồn ào như cả đại đội lính, thật hết sức khủng khiếp. Giáo dân ở chung quanh nhà xứ cũng nghe như thế. Họ to nhỏ bàn tán với nhau: "Có ai đến khủng bố cha xứ mình chăng?" Tối hôm sau, thanh niên dân vệ cùng nhau bàn một kế hoạch: tất cả nhất trí mang súng vào quanh hành lang nhà xứ mà ngủ, quyết trừng trị cho bằng được bọn bất lương. Gần nửa đêm, nhà xứ bỗng rung chuyển dữ dội, tiếng ầm ầm nổi lên cơ hồ như sắp tận thế. Nhưng khi bật đèn lên thì thanh nhiên chẳng thấy ai hết. Lạ quá! Họ ngơ ngẩn một hồi, rồi vì quá kinh hãi, bèn cùng nhau ôm súng vắt giò lên cổ mà chạy. Hôm sau, chẳng còn một ai dám lai vãng chung quanh nhà cha xứ. Cha Vianney biết là ma quỷ muốn làm cho ngài phải kinh khiếp, mệt mỏi, mất ngủ, vì ngài đã cướp của chúng khá nhiều linh hồn ở tòa giải tội. Ngày nay, ai tới viếng thăm nhà xứ Ars vẫn còn thấy tang chứng rất rõ: một chiếc giường gỗ bị bọn chúng đốt cháy mất một phần. Lần khác, lúc thánh Vianney còn đang đánh tội, Satan bèn hiện ra làm hại người. Nó xô ngài ngã vào tường. Hiện nay mười ngón tay đầy máu của ngài chống vào tường và đôi vai cũng đầy máu của ngài ngã vào tường vẫn còn in dấu rõ ràng ngay tại nơi đánh tội. Có lần ma quỷ tức tối đã thét lên: "Mày cướp các linh hồn của tao! Mày phải chừa bớt!" Nhưng ngài thì cho biết: "Ðêm nào ma quỷ cũng quấy rầy cha càng dữ thì ngày hôm sau cha bắt được những "con cá càng bự" đã bỏ xưng tội lâu năm".

Tiếng đồn ma quỷ quấy nhiễu cha Vianney làm cho một số anh em linh mục phì cười mỉa mai: "Lại thêm chuyện phép lạ ở xứ Ars! Cái chú Vianney dốt đặc này không chịu an phận cho xong, lại nay bày chuyện này mai đồn tin khác. Toàn là những chuyện nhảm nhí, vô bổ, tung ra cũng chỉ cốt để quyến dụ bà già con trẻ đến cái xứ khỉ ho cò gáy ấy!" Cha Vianney nghe các lời mỉa mai chê trách ấy thì đều dâng cho Chúa và thinh lặng chịu đựng.

Một hôm, nhân dịp mở tuần đại phúc tại một xứ trong hạt, người ta đã mời cha Vianney cùng nhiều linh mục khác đến giúp. Sau bữa cơm tối, cha Vianney nhẹ nhàng nói với anh em: "Thưa các cha, con hay bị ma quỷ quấy phá, nhất là áp những hôm con cứu được nhiều linh hồn tội lỗi nặng. Vì thế, để đề phòng, con xin trình các cha trước, nếu đêm nay ma quỷ có làm gì thì xin các cha cứ biết vậy và an tâm, nó phá một lúc rồi sẽ hết!" Cha Vianney vừa dứt lời, các cha khác đã cười rồ lên:

- Lại chuyện ma quỷ! Sao mà nghe cha nói toàn là chuyện giật gân tào lao không à! Có thật không? Hay cha bị ám ảnh thế?

- Ðây là dịp tốt, cha khác bảo, mình cứ nghe hoài câu chuyện ma quỷ phá rối cha Vianney mà chẳng bao giờ chứng kiến được, may ra tối nay mình sẽ được một pha xem tận mắt! Cha Vianney cứ yên trí "ngủ đi"! Tụi này không sợ ma quỷ gì đâu, trái lại còn mong xem thấy tận mắt là khác!

Cả nhà tắt đèn đi ngủ. Nửa đêm, giữa lúc mọi người đang say sưa giấc điệp thì nhà xứ rung động dữ dội, ghế bàn chạy đi lay lại, đồ đạc thì lăn lóc rơi xuống vung vãi trên sàn nhà, cột nhà thì kêu răng rắc như muốn gãy đôi. Các cụ hớt hơ hớt hãi mang áo ngủ lùng thùng chạy ra sân, mình toát cả mồ hôi hột, miệng không ngớt kêu lên:

- Dễ sợ quá! Chưa bao giờ thấy chuyện khủng khiếp như thế này! Cái gì thế? Ðộng đất lớn à?

- Thế còn ông Vianney đâu mất?

- Chắc ông ở trên phòng! Ðợi yên ta lên tìm xem.

Các cụ kéo nhau lên gác, gõ cửa: "Cộc cộc". Có tiếng guốc khua trên sàn nhà, cha Vianney mở cửa, các cụ ái ngại hỏi:

- Cha đang ngủ à?

- Vâng, con đang ngủ!

- Thế cha không nghe gì cả sao? Chúng tôi kinh khiếp quá!

- Có con có nghe. Thì... hồi tối, ở nhà cơm, con có trình với các cha rồi! Ma quỷ nó hay quấy phá con như thế lắm! Xin các cha cứ yên tâm, có đêm nó làm con nhiều lần như thế, nhưng không sao cả! Vì nó thua to, nó căng thì nó quấy phá vậy thôi!

Nói xong, ngài chào các cha và đi ngủ. Các cụ cũng trở về lại phòng, nhưng suốt đêm không sao nhắm mắt được. Cơn ác mộng kinh hoàng vừa xảy ra cứ bám chặt vào tâm trí các cụ như đỉa đói.

Sáng hôm sau, vào giờ điểm tâm, các cụ lại nhắc đến câu chuyện khiếp sợ hồi hôm và nói: "Cha Vianney, bây giờ chúng tôi tin thực đúng là "băng hỏa ngục" nó quấy phá cha. Mấy lâu nay chúng tôi chế nhạo cha, nhưng đêm vừa rồi chúng tôi phải một phen thật kinh hồn khiếp vía và cảm thấy xấu hổ với cha quá! Xin cha thông cảm và thứ tha lỗi lầm cho anh em chúng tôi. Nhưng nay chúng tôi yêu cầu cha một điều: suốt tuần đại phúc này, chiều nào cha cũng phải về xứ Ars để ngủ rồi sáng mai lại chịu khó đến đây. Chứ nếu cha ngủ đây thì chúng tôi phải di tản hết. Khiếp quá chịu không thấu!"

- Con xin vâng lời các cha. Khởi sự chiều nay, con sẽ về nhà ngủ. (ÐHV 705, 706).

Cô Bernađêta được thấy Ðức Mẹ hiện ra nhiều lần tại Lộ Ðức cũng như các em Giaxinta, Phanxicô và Luxia được thấy Ðức Mẹ hiện ra nhiều lần tại Fatima và trao sứ mệnh phổ biến sứ điệp của Mẹ cho toàn thể thế giới đã phải chịu nhiều đau khổ, gian lao. Nào bị cha mẹ rầy la, chửi mắng, đánh đập vì câu chuyện gây phiền nhiễu cho gia đình, nào bị bà con lối xóm chê bai, lăng mạ là đồ gian dối, là lũ ranh con cả gan lường gạt giáo dân; cha xứ cũng cật vấn các em đủ cách, bảo các em đừng tuyên truyền ba chuyện nhảm nhí, xoay các em, bắt các em nói sự thật, nhưng các em chẳng biết làm sao hơn nữa đành khóc sướt mướt, an ủi, động viên nhau cầu nguyện và hy sinh thêm. Cha chánh xứ của Bernađêta lại còn bảo: "Ma quỷ đấy, không phải thần thánh gì đâu! Lần sau có ra hang đá, con phải xách nước thánh theo, hễ thấy Bà ấy hiện ra thì rẩy vào người Bà". Bernađêta rất đau lòng nhưng vẫn tuân lệnh. Khi em rẩy nước thánh vào Bà, Bà chỉ mỉm cười chứ không chạy trốn!

Các em còn phải đau khổ vì các cơ quan an ninh địa phương. Họ cho các em là bọn bịp bợm, mê tín, buôn thần bán thánh, làm rối loạn an ninh trật tự, nên bắt giam, thẩm vấn, đe dọa đủ điều.

Nhưng điều làm cho các em phải dày vò ray rứt hơn cả là bị người ta cấm không cho ra hang đá, ra cây sồi, theo đúng lời đã hẹn với Mẹ. Không lẽ bất tuân lời Mẹ? Nhưng đàng khác, làm sao có thể đi? Mọi người đều ngăm đe nhiếc mắng thế kia! Tuy nhiên, các em vẫn can đảm, nhẫn nại, Mẹ đã thanh luyện các em trong lò gian nan đau khổ để các em nên xứng đáng là những sứ giả tí hon mang sứ điệp Mẹ đến cho toàn thế giới.

Trên đây chỉ đan cử một vài gương sáng của năm ba vị thánh, vì trong tập này đã có dịp nhắc đến gian khổ của nhiều vị thánh khác như Têrêxa d'Avila, Gioan Lasan, Gioan Boscô, Anphongsô, Margarita Maria, các thánh Tử Ðạo...
 
 
30- Ðứa Con Hạnh Phúc

1. Con đường thơ ấu thiêng liêng

* Thời gian là của Chúa, muôn vật là của Chúa, Alpha và Omega, căn nguyên và cùng đích; Chúa toàn năng, cao cả, nhưng đồng thời chăm sóc chim trời cá biển, thú rừng, hoa đồng nội và Chúa đếm hết tóc trên đầu con: Chúa chỉ kể tình yêu. Bình an và hạnh phúc cho tâm hồn nhỏ bé biết khao khát vô tận (ÐHV 734).

* Chúng ta quan niệm Nước Trời khó khăn, phức tạp quá! Chúa Giêsu chỉ đặt một điều kiện: "Ai không trở nên như trẻ thơ, thì chẳng đáng vào Nước Trời" (ÐHV 735).

Nói đến con đường thơ ấu thiêng liêng bất cứ ai cũng nghĩ ngay đến chị thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu. Chính Thiên Chúa đã dùng chị để vạch ra cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn một đường lối tuyệt hảo để đi đến cùng Thiên Chúa. Cần phải suy niệm nghiêm túc toàn bộ tác phẩm "Một Tâm Hồn" hay "Thủ Bản Tự Thuật" mới mong hiểu được phần nào con đường đơn sơ tín thác ấy.

Sau đây chỉ trích lại một vài mảnh vụn thu nhặt đó đây để chúng ta cùng suy niệm và cầu nguyện:

Chị thánh Têrêxa viết cho chị cả Marie du Sacré-Coeur: "Chị yêu dấu, em đoán chị muốn nghe em kể lại những mầu nhiệm mà Chúa đã tỏ cùng em, những mầu nhiệm mà Chúa đã tỏ cùng chị rồi. Em chắc thế! Vì xưa chính chị đã tập cho em biết trầm mặc những tâm sự với Chúa. Tâm sự với Chúa tức là mầu nhiệm, mà mầu nhiệm thì lưỡi phàm trần không thể nói. Chỉ có trái tim mới cảm được phần nào thôi. Dầu vậy, em cũng xin cứ nói một đôi lời:

Chị đừng nghĩ rằng em đang được vững vàng sung sướng trong suối an ủi. Ôi! không phải thế đâu. Sự an ủi của em là đừng còn được an ủi gì ở thế gian này nữa. Trong im lặng kín đáo, Chúa Giêsu đã dạy dỗ em. Chúa không ra mặt, không lên tiếng, cũng không dùng sách vở nào. Và em chẳng hiểu sách vở nào hết mặc dù có đọc. Ðọc sách họa hoằn lắm em mới gặp được đôi lời an ủi; chẳng hạn như trót giờ ngắm sáng nay em cảm thấy khô khan lắm, mãi lúc gần xong em mới được câu an ủi này: Ðây là điều Cha Thầy ban để dạy các con. Người sẽ dạy các con các việc phải làm. Cha muốn con năng đọc sách Sự Sống là sách biên chép rành mạch khoa học tình yêu và nghệ thuật yêu thương.

Ôi! Khoa học Tình yêu! Nghệ thuật yêu thương! Những tiếng du dương êm ái dường nào! Nghe như mật rót vào tai, làm linh hồn hết sức cảm khoái! Em chỉ ước ao học chuyên môn khoa ấy, và để theo học, dù đã tốn phí hết cơ nghiệp, em cũng còn nói như "Bạn tình" trong Nhã Ca; "Em chưa tốn phí gì cả " (Nhã Ca 8,7).

Em cũng nhận rằng chỉ có tình yêu mới đủ làm ta được vừa lòng, vừa ý Chúa. Vậy tình yêu phải là tất cả cơ nghiệp của em, em chỉ biết say sưa yêu mến Chúa cho trọn tình nghĩa.

Chúa Giêsu đã cho em biết con đường duy nhất đưa ta đến bến lửa tình yêu là phó thác mình trong tay Chúa, tựa hồ đứa con nít nằm ngủ trên cánh tay Cha, không còn biết lo sợ gì nữa. Chúa đã phán qua miệng vua Salomon thế này: "Ai nhỏ bé nhất hãy đến với Ta" (Châm ngôn 9,4). Nơi khác: "Chúa xót thương những người bé nhỏ" (Khôn ngoan 6,6). Tiên tri Isaia cũng nhân danh Ðấng nguồn tình yêu mà nói: "Ngày sau hết Chúa sẽ dẫn đàn chiên Chúa vào cánh đồng cỏ xanh rờn. Người sẽ chọn chiên nào bé nhỏ hơn để ẵm bế trên ngực". Và như chưa thỏa lòng đủ với những cách tỏ tình yêu đương ấy, Chúa lại còn soi cho Tiên tri Isaia nói: "Như mẹ kia mơn trớn yêu dấu con thế nào, Ta cũng sẽ ẵm bế an ủi chúng con, ôm ấp vào lòng và ru trên đầu gối như vậy" (Is 40,11)

Chị yêu dấu hỡi, nghe những lời tha thiết đó, chúng ta biết nói sao? Chúng ta chỉ còn biết im lặng mà khóc vì ơn, vì nghĩa, vì tình... Ôi! Nếu các linh hồn yếu đuối và thiếu thốn như linh hồn em mà thấu hiểu điều em chiêm niệm đây, làm sao còn linh hồn nào thất vọng trên đường trọn lành nữa? Em dám nghĩ: hết thảy sẽ dễ dàng bay tới đỉnh Ái sơn, vì Chúa chẳng buộc ta phải có những hành động to tát hiển hách, phải làm những việc cả thể, phi thường, Người chỉ buộc ta phải phó trót cho thánh ý Người, và giữ luôn luôn tâm lòng tri ân cho toàn vẹn. Chúa đã phán: "Cha chẳng cần những đoàn chiên dê của chúng con, bởi vì tất cả những cầm thú trên rừng xanh, những chim muông trên rừng núi là của Cha hết. Cha biết rõ từng con chim bay lượn trên non nước. Nếu Cha đói, Cha chẳng phải nói với chúng con đâu, bởi vì trái đất và mọi sự trong trái đất đều là của Cha. Nào Cha phải cần ăn thịt bò và uống máu dê ư? Chúng con hãy dâng lên Cha những lời khen ngợi, những hành động đền ơn trả nghĩa".

Ðó là tất cả những sự mà Chúa đòi hỏi ở ta. Người chẳng cần chi công việc ta làm, chỉ cần ta có lòng yêu mến Ngài là đủ.

Thưa chị yêu dấu, chị đã ngỏ ý muốn hiểu thấu lòng em, tất cả những tâm tình em, và em muốn viết lại đây cái mộng xuân tươi đẹp nhất của đời em, cùng cả cái mà chị kêu là "học thuyết của em". Thì nó như thế đấy!"
* * *

* Khi người ta xin điều gì, người ta khai khả năng và công trạng... nhưng em bé, cách đơn sơ, chỉ khai: "Con là con ông.., con bà..., ở trên xóm..." Ðó là tất cả đơn từ của nó. Con hãy hiên ngang và cầu nguyện như vậy: "Con là con Chúa, con Ðức Mẹ..." (ÐHV 719).

* Ðứa bé đến quán mua đồ cho mẹ, quán đã đóng cửa, nó gõ mãi, chủ quán tức tối mở cửa, sẵn sàng mắng nó một trận, nhưng thấy em bé đơn sơ, chủ đầu hàng và tươi cười âu yếm: "Tội nghiệp, con giỏi quá, đi đâu giờ này?..." và nó được tất cả, hãy sống như trẻ thơ (ÐHV 720).

* Trẻ con không cần biết cha mẹ giàu hay nghèo chỉ biết có cha mẹ là đủ, dù có bom đạn, dù có đói rách, hiểm nguy, miễn là có cha mẹ, trẻ ngủ thiếp đi bằng an. Nó trú ở tình yêu hầu như toàn năng của cha mẹ. Con hãy phó thác như vậy! (ÐHV 721).

* Bé con lầm lẫn bao nhiêu lần, cha mẹ cứ thương vì biết đứa bé không có lòng xấu. Nó dốc lòng mãi và nó sa ngã mãi. Không hề gì! Chỉ thiện chí của nó. Mặc dù cha mẹ nó yếu đuối không làm gì được: "Con đừng dại nữa nghe con!..." - "Dạ." - "Con có thương ba má ngàn lần không?" - "Có." - "Vạn lần không?" - "Có." - "Triệu lần không?" - "Có." - Chúa chỉ cần thiện chí của con. Ơn Chúa sẽ giúp con (ÐHV 722).

Và từ tâm tình đó phát xuất ra "Lời nguyện xin các linh hồn thơ ấu" sau đây:

"Lạy Chúa Giêsu, chớ gì con nói được cùng các linh hồn thơ ấu cách Chúa thương yêu chiều đãi chúng con lạ lùng dường nào! Con tin thật rằng, vì dù Chúa gặp một linh hồn nào yếu đuối hơn linh hồn con, nhưng biết hoàn toàn hy vọng ở tình yêu hải hà Chúa, thì hẳn Chúa sẽ vui lòng thi ân giáng phúc cho linh hồn ấy phong phú hơn, lớn lao hơn ngàn lần nữa.

"Nhưng lạy Chúa Ðấng chí thiết, Bạn Tình chí ái, tại sao con lại ước ao cổ võ huyền nhiệm tình yêu hải hà Chúa như thế? Nào chính Chúa, Ðấng đã dạy con tình yêu, há lại chẳng biết chọn người khác để sai đi cổ võ mầu nhiệm này sao? Thôi, con hiểu rồi, con xin im lặng vâng theo ý Chúa định đoạt.

"Con chỉ tha thiết nài xin Chúa đoái nhìn đến số đông những linh hồn thơ ấu, nài xin Chúa chọn lấy trong thế gian một đoàn quân gồm hết thảy những linh hồn đơn sơ bé mọn, hầu làm của lễ xứng đáng dâng tế tình yêu hải hà Chúa!

"Ôi Chúa Giêsu! xin nhậm lời con cùng".
* * *

* Cầu nguyện, con đừng ngại xin Chúa, con cứ đơn sơ thành thực, như đứa bé: biết được yêu thương, nó xỏ tay vào túi áo cha, mở xách của mẹ để kiếm quà. Chúa không nói dụ ngôn "đứa con xin cha bánh và cá sao?" (ÐHV 723).

* Con mệt mỏi, con cầm trí lâu không được, con chán nản. Miễn con yêu mến Chúa là đủ. Một đứa bé chơi trước mặt cha mẹ, ngồi trên chân cha mẹ, hay nhìn cha mẹ, hoặc ngủ ngon lành, cha mẹ cũng sung sướng nâng niu nó (ÐHV 724).

Chị thánh Têrêxa đã sống tinh thần thơ ấu như thế này trong cách cầu nguyện:

"Cầu nguyện để được nhậm lời, thì không cần phải đọc một câu kinh đặt thật hay và thật đúng hoàn cảnh. Ngoài những kinh nguyện chung hằng ngày, tôi không có can đảm lật từng trang sách để tìm những kinh hay; làm như thế chỉ thêm nhức đầu rối trí bởi kinh nào cũng thấy hay cả. Thành thử, vì không thể đọc hết các kinh, tôi làm như mấy đứa nhỏ không biết đọc sách: chỉ nói đơn sơ với Chúa những điều tôi muốn nói, và luôn luôn Chúa hiểu tôi. Ðối với tôi, cầu nguyện là một cái gì đơn sơ hướng lên trời, là một sự nhắc lòng lên với Chúa, là một tiếng kêu biết ơn và đầy lòng yêu mến lúc gặp thử thách cũng như được vui thỏa. Tóm lại, cầu nguyện là một cái gì cao cả, siêu nhiên, làm cho tâm hồn mở ra và kết hợp với Chúa".
* * *

* Cha mẹ xin kẹo của em bé, nó thu tay lại, nó không cho, cha mẹ năn nỉ, nó còn tiếc, nó đưa tay ra, mở tay dần dần và cho cha mẹ. Cha mẹ mừng vui, hôn con đã quảng đại, thắng tánh ích kỷ và cho con thêm nữa. Chúa vui sướng vì những hy sinh nhỏ mọn của con (ÐHV 726).

* Tâm hồn trẻ con không biết căm thù, vừa bị cha mẹ sửa phạt, nó khóc lóc nhưng nó quên liền, nó thiu thiu ngủ trên tay vừa đánh phạt nó. Con hãy quên tất cả bực tức, ác cảm, ở trên tay dịu hiền của cha mẹ con, con hạnh phúc quá rồi! (ÐHV 728).

Trong cuộc sống hằng ngày, chị thánh Têrêxa không bỏ qua một dịp nào mà không hiến tế mình một cách vừa đơn sơ như một đứa con yêu mến Cha, vừa cao cả, vừa tế nhị. Chị thuật lại:

"Trong nhà có một chị thường lúc nào cũng làm con phật ý. Từ cách cư xử, lời ăn tiếng nói cho tới tính khí của chị, cái gì xem ra cũng gây khó chịu cả. Tuy vậy, chị là một nữ tu đạo đức và có lẽ rất đẹp lòng Chúa. Con không muốn chiều theo tính ác cảm tự nhiên đối với chị ấy nên con thầm nhủ: Bác ái không hệ ở tình cảm nhưng ở việc làm. Và con ra sức đối xử với chị này như đối với một người thân yêu nhất. Mỗi khi gặp chị, con lại cầu nguyện cho chị, dâng cho Chúa mọi nhân đức và công nghiệp của chị. Làm như thế con thấy Chúa Giêsu được hài lòng lắm, vì không có nhà nghệ sĩ nào lại không muốn được nghe người ta ca tụng tác phẩm của mình, và Chúa Giêsu, nhà nghệ sĩ sáng tạo các tâm hồn sẽ sung sướng khi thấy người ta bỏ qua cái vẻ bên ngoài của tâm hồn, để đi vào tận thâm cung nơi Chúa ngự mà chiêm ngắm và ca tụng vẻ đẹp của nó. Cầu nguyện cho kẻ làm mình bực bội mà thôi, con chưa lấy làm đủ. Mỗi khi có thể, con còn cố gắng giúp đỡ chị và khi con bực bội muốn đối chất với chị một cách bất nhã, con lại nở một nụ cười hết sức âu yếm, rồi tìm cách đánh trống lảng sang chuyện khác. Sách Gương Phước có dạy: "Thà để người ta nghĩ sao tùy ý còn hơn là cãi lẫy".

"Thường khi con không ra chơi (con có ý nói đến giờ làm việc), nếu có chuyện gì với chị đó mà con thấy khó có thể chịu đựng được, con liền đánh bài chuồn như một người lính đào ngũ. Vì chị không biết con nghĩ thế nào về chị, nên chị không hề ngờ được tại sao con xử sự như thế, chị cứ tưởng con ưa chị lắm. Một hôm vào giờ chơi, chị tỏ vẻ đắc ý và nói với con một câu đại khái như sau: "Này chị Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, chị có thể cho tôi biết tại sao chị mến tôi không? Không hiểu tại sao hễ cứ nhìn tôi là y như chị tủm tỉm cười?" À! Cái làm cho con yêu mến chị chính là Chúa Giêsu náu trong đáy lòng chị vậy... Chúa Giêsu là Ðấng biến đổi sự cay đắng nên êm ái ngọt ngào (Gương Phước III, 5,3). Con bảo chị: sở dĩ con cười là vì con thích chị lắm. (Dĩ nhiên con không nói thêm là con thích chị chỉ trong phạm vi thiêng liêng thôi)".

2. Vinh danh Cha là hạnh phúc của con

* Tâm hồn trẻ thơ đây không phải là thơ ngây. Nhưng là yêu thương không giới hạn, phó thác cho cha mẹ tất cả; cha mẹ bảo gì, làm tất cả; theo cha mẹ, bỏ tất cả; tin tưởng cha mẹ hơn tất cả. Hùng dũng, vững vàng, xưng đạo làm con của người Kitô hữu (ÐHV 730).

Cha Charles de Foucauld đã để lại không biết bao nhiêu bút tích làm ích cho các tâm hồn tận hiến, cho các linh hồn ao ước hoàn toàn phó thác trong tay Chúa là Cha từ nhân. Mấy giòng vắn tắt sau đây giúp ta suy niệm một ít tâm tình sâu xa nhất của ngài:

"Lạy Cha là Chúa Trời con, cái này hay cái khác cũng được, không quan hệ lắm. Cái đáng kể hơn hết chính là sự vinh hiển Cha. Xin Cha hãy làm sáng danh Cha. Xin Cha hãy ban cho con sự gì làm sáng danh Cha hơn cả. Chính sự đó con muốn xin Cha, chứ không sự gì khác.

"Xin Cha đừng chú trọng đến lời con cầu xin... Con đã cầu xin và con phải cầu xin, bởi vì Cha là Cha của con và bởi vì trình bày cho Cha biết những thiếu thốn của con đó là nhiệm vụ con phải làm... Nhưng sau khi con đã đơn sơ nói cho Cha biết những nhu cầu của con, thì con xin nhắc lại cho Cha, con xin lặp lại, con nói và con xin nói lại cho Cha biết là con còn một nhu cầu khác, ngàn lần lớn lao hơn, ngàn lần mong ước hơn, đó là nhu cầu thấy Cha được vinh hiển, đó là nhu cầu đích thực và duy nhất của con. Nhu cầu đó con xin Cha làm cho con được thỏa mãn.

"Lạy Cha con, xin hãy làm sáng danh Cha nơi con, xin hãy làm sáng danh Cha nơi con, xin hãy làm sáng danh Cha...

"Ðiều con ao ước là làm sao cho Cha được vinh hiển. Ðó là khát vọng của con.

"Lạy Cha, xin hãy làm nơi con sự gì đẹp lòng Cha hơn cả, sự gì cũng được. Lạy Cha, xin hãy cứ làm sáng danh Cha..."

Ngài còn sáng tác một bài kinh rất hay quen gọi là kinh phó thác, cũng gồm những tâm tình như vừa thấy:

"Lạy Cha con phó mặc con cho Cha, xin dùng con tùy sở thích Cha. Cha dùng con làm chi, con cũng xin cám ơn. Con luôn luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả. Miễn là ý Cha thực hiện nơi con, nơi mọi loài Cha tạo dựng, thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa. Con trao linh hồn con về tay Cha. Con dâng linh hồn con cho Cha. Lạy Chúa Trời con, với tất cả tình yêu của lòng con. Vì con yêu mến Cha, vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha, thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha, không so đo, với một lòng tin cậy vô biên vì Cha là Cha của con".

3. Tâm hồn đơn sơ trên ngai Giáo Hoàng

* Sống tinh thần con Chúa không phải là ủy mị, thụ động, nhưng là một linh đạo: Dễ dàng trong sự khó khăn, Ðơn sơ trong sự phức tạp, Dịu dàng trong sự cương quyết, Hùng dũng trong sự yếu đuối, Khôn ngoan trong sự điên dại. "Nếu các con không trở nên như trẻ thơ, các con không được vào Nước trời." (ÐHV 727).

* Nhà tạm Chúa Thánh Thể và Mẹ Maria là bí quyết của sức mạnh con trên đường hy vọng. Tất cả các tinh tú dù xán lạn, bao la đến đâu, cũng không sánh với quả đất nhỏ hẹp này được (ÐHV 733).

Ðức Gioan XXIII mà chúng ta có dịp nhắc đến nhiều lần, tuy ở trên ngôi Giáo Hoàng rất đỗi cao sang, nhưng vẫn luôn giữ một tâm hồn đơn sơ, khiêm nhường như một trẻ thơ trước mặt Thiên Chúa.

Ngài đã ghi lại ngày 11.8.1961 trong "Tâm hồn nhật ký":

"Xưng tội hằng tuần là việc tôi làm suốt đời...

"Tội nghịch đức trong sạch? Suốt đời không bao giờ có lỗi trọng, hoặc vì cá nhân hoặc vì thân thiện với ai. Dù do mắt, dù do tay chân, dù do hình ảnh cám dỗ không bao giờ có. Ðó là ơn Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của tôi, và tôi tin ở Chúa sẽ tiếp tục bảo vệ tôi đến giây phút sau cùng.

"Tội nghịch đức khiêm nhường? Tôi tôn thờ và hằng thực hiện đức này. Tuy nhiên, khi bị coi thường, thâm tâm vẫn còn phản ứng. Phản ứng này tôi xin âm thầm giữ trong bụng để học tập thêm đức nhẫn nại, để thêm dịp đền tội, và cũng là phương thế để đền tội thế gian.

"Ðối với đức bác ái? Tuy ít gặp khó khăn về điểm này, thế nhưng lắm lúc cũng là dịp hãm mình, vì lắm lúc suýt mất nhẫn nại và do đó, có thể có một hai kẻ vô tình đã phải gánh chịu đau khổ.

"Xúc phạm? Ai biết được bao lần mình đã lỗi luật Chúa và luật Hội Thánh. Thực nhiều vô kể! Tuy nhiên, tôi không cả lòng trong sự nặng ngay cả trong sự nhẹ. Lòng trí tôi hằng quý mến luật của Chúa, luật Hội Thánh và luật đời; nhất là tôi hằng cẩn thận giữ gìn để làm gương cho thuộc hạ, để "xây dựng giáo sĩ và giáo dân",

"Nếu có lỗi, tôi đã xưng tội, đã dốc lòng sửa chữa, và càng cao tuổi, tôi càng hằng cố gắng giữ các thứ luật cách chính chắn.

"Sơ suất? Thế nào cũng lắm sơ suất vì bao nhiệm vụ của đời mục vụ và hiện nay của một Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô. Cả cuộc sống dài 80 tuổi với bao nhiêu "lỗi lầm sơ suất", tôi đã thú nhận tất cả hồi sáng nay với Ðức Giám mục Cavagna, người giải tội thường xuyên của tôi, ngay nơi phòng này, nơi mà các vị tiền nhiệm Piô XI, Piô XII ở, và riêng Ðức Piô XII đã chết, ngày 9.10.1958...

"Xin Chúa Giêsu hằng thương xót con là kẻ có tội, con hằng tin tưởng ở sự đại từ bi vĩnh cửu của Chúa".

4. Thế nào là đứa con hạnh phúc

* Bạo dạn vì ơn Chúa là điều kiện để nên thánh, hãy bạo dạn như trẻ thơ, vui tươi chấp nhận ý Chúa, sẵn sàng theo ý Chúa bất cứ đến đâu, yêu mến Chúa tận tình. Trẻ thơ sẵn sàng lên mặt trăng, tình nguyện đi phi thuyền, miễn là có sự hiện diện của cha mẹ (ÐHV 729).

Có người hỏi chị Chiara Lubich làm sao chị có thể theo dõi hằng trăm ngàn người trên thế giới, làm sao chị có thể hướng dẫn tất cả mọi người theo cùng một linh đạo? Chị mỉm cười trả lời: "Tôi không theo dõi ai cả. Tôi chỉ theo dõi Thiên Chúa từng giây phút, và nếu tôi theo dõi Thiên Chúa thì đám đông sẽ theo tôi!"

Cha Antoine Weber đã thuật lại một kinh nghiệm sống tương tự như thế. "Khi tôi làm việc ở Braxin, tôi có quen biết một chị bếp người Phi châu. Chị mù chữ nhưng là một đầu bếp giỏi, hằng tuần được gởi đi nấu cơm cho một trại lính. Chính trong công việc này, chị đã khám phá ra chiều sâu của Phúc Âm. Chị thầm hiểu phải thực hiện ý Chúa trong từng giây phút, yêu Chúa trong mỗi anh chị em, phục vụ Chúa trong hết mọi người. Ðời sống chị, chị xem là một cuộc phiêu lưu kỳ thú, vì mỗi ngày chị lại khám phá thêm một khuôn mặt mới của Chúa, hiểu thêm một khía cạnh mới của tình yêu Chúa Kitô muốn trao cho mỗi người anh chị em. Một ngày kia, chị kể lại cuộc sống chị và đã đánh động được nhiều người. Chị trở nên một nguồn suối nước tưới mát phong phú cho những ai được chị thông truyền kinh nghiệm sống cho. Một giáo sư thần học sau khi gặp được chị đã nói rằng ngài học được nơi chị nhiều hơn những năm ở ban thần học. Một nhà tâm lý học cũng bảo: chị không có mặc cảm với người khác, chị sống như một người con của Thiên Chúa, chị đã tỏ ra hoàn toàn tự do".

Ðiều đáng tiếc là đa số anh em Kitô hữu đã không thực hiện thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại. Mỗi người thành lập chương trình riêng cho mình. Họ thất vọng vì đời sống quá bình lặng, vô danh và độc điệu của họ. Họ không sống đời sống của họ cách sâu xa. Họ sống trong giấc mơ, trong hoài niệm, trong tương lai nhưng không sống trong giây phút hiện tại của mình.

5. Hạnh phúc làm con Chúa

* Người mồ côi được sung túc phú quý là người hạnh phúc, nhưng không phải là người con hạnh phúc. Nghèo khó mấy mà có cha yêu, mẹ mến là người con hạnh phúc. Con có ý thức con là đứa con vô cùng hạnh phúc vì làm con Chúa Cha, con Mẹ Maria không? (ÐHV 718).

Chúng ta đã có dịp tìm hiểu đời sống vui tươi của Viện phụ Dom Columban Marmion (1858-1923). Ngài đã giảng dạy và đã viết rất nhiều sách. Trọng tâm đường hướng của ngài là "làm thế nào để sống đạo làm con Chúa một cách vui tươi hạnh phúc".

Tác phẩm của ngài được viết rất đầy đủ, trong sáng. Mời các bạn có thời giờ hãy tìm đọc hoặc đọc kỹ lại ít là ba cuốn sau đây, theo thứ tự từ trên xuống dưới:

1- Sống Ðức Kitô (Le Christ vie de l'âme).
2- Thần tượng đời tu (Le Christ idéal du religieux).
3- Dom Columban Marmion, nhà linh hướng thế kỷ (Dom Columban Marmion, un maitre de vie spirituelle, D.R. Thibaut).

Thiết nghĩ ba tác phẩm ấy nói lên đầy đủ đường lối của ngài, một đường lối mà ngài đã thực hiện qua chính cuộc sống bản thân. Hễ thiếu một trong ba cuốn ấy thì chưa hiểu rõ tinh thần của Dom Columban Marmion được.

Ngoài ra còn có những tác phẩm bổ túc hoặc quảng diễn đường hướng trên một cách sâu rộng hơn:

4- Ðến mà xem (Le Christ dans ses mystères).
5- Ðời thần duyên (L'Union à Dieu dans le Christ d'après les lettres de direction de Dom Columban Marmion, D.R. Thibaut).
6- Sống đau khổ (Face à souffrance).
7- Sống tận hiến (La Vierge consacrée au Christ),
8- Thần tượng linh mục (Le Christ idéal du prêtre).

Viện phụ Dom Columban Marmion còn là vị linh hướng, là bạn thân tình, là người cố vấn tín cẩn của Ðức Hồng Y Mercier (1851-1926), Giáo chủ nước Bỉ. Do đó, có thể nói rằng học thuyết của Dom Columba Marmion đã được phản ảnh trong lời giảng huấn của các tác phẩm của Ðức Hồng Y Mercier, đặc biệt trong hai cuốn:

1- Tĩnh tâm linh mục (A mes prêtres).

2- Tĩnh tâm chủng sinh (A mes séminaristes).
 
 
31- Bác Ái

1. Bác ái là thí mạng

* Chúa Giêsu bị bỏ rơi trên thánh giá, Chúa Giêsu còn bị bỏ rơi trong mọi anh em đau khổ, khắp trên thế giới (ÐHV 803).

* Ngày tận thế Chúa phán xét về đức ái, không phải về các thành công vĩ đại (ÐHV 804).

Chúa Giêsu đã dạy: "Không có tình yêu nào cao cả bằng thí mạng vì kẻ mình yêu" và chính Người đã làm gương trước.

Bước theo Ngài, các thánh cũng làm như vậy. Cha xin đan cử một vài mẫu gương sống động sau đây:

Thánh Paulinô, Giám mục thành Nôla (353-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình từ bỏ chức lãnh sự ở Roma, đã sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh và làm đến chức Giám mục. Khi quân Goths chiếm đóng xứ ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân của mình, đi làm nô lệ thay cho con trai của bà góa và bị điệu sang Phi châu. Mãi lâu sau, ngài mới được trả tự do và trở về lại giáo phận Nôla của ngài trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo hữu.
* * *

* Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt mà tay trái không biết. "Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con" (ÐHV 755).

* Nếu các công việc từ thiện xã hội của con không phải vì Chúa, thì con chỉ là nhân viên của một chi nhánh Hồng Thập Tự (ÐHV 786).

Thánh Vinh Sơn Phaolô (1581-1660) là một vị thánh của bác ái. Suốt đời ngài tận tụy hy sinh để nâng đỡ cuộc sống của những ai bị xã hội ruồng bỏ, như những kẻ nghèo khó, cô nhi, quả phụ, nông dân quê mùa, hay tội nhân trong chốn ngục tù.

Trước hết về phần thiêng liêng, ngài đã đem hết lòng đạo đức và khôn ngoan để làm bề trên hướng dẫn Dòng Ðức Bà Ði Viếng (là Dòng lo cho những kẻ nghèo khó) trong suốt 40 năm. Ngài cũng đi khắp nơi, nhất là trong những vùng thôn quê, những khu xóm lao động bị giới vương bá bóc lột để rao giảng Tin Mừng. Ngài còn nhiệt thành trong việc canh tân đời sống linh mục và thiết lập các chủng viện.

Về phần xác, nói được ngài là người đầu tiên có sáng kiến khởi xướng việc sáng lập nhiều hội Bác ái từ thiện để lo cho những người khốn khổ, giáo dục các cô thiếu nữ...

Mãi đến lúc tuổi già, nhiều đêm khuya tuyết sa lạnh buốt, ngài vẫn lang thang tìm kiếm những cụ già thân run lập cập giữa cảnh màn trời chiếu đất, hay những trẻ thơ vô tội bị vứt bỏ ở các góc đường để bế về nhà săn sóc, cứu chữa...

Ðể nối tiếp công việc bác ái phi thường ấy, ngài thành lập Hội Dòng "Các linh mục chuyên giảng đại phúc" để rao giảng cho giới bần cùng ở chốn thôn quê và Dòng Nữ Tu Bác ái để cứu giúp những người nghèo khổ.

Vì quá tận tụy trong chức vụ và vì tuổi già sức yếu, ngài đã an nghỉ trong Chúa lúc gần 80 tuổi. Ðức Lêô XIII đã tôn ngài làm bổn mạng các Hội Từ Thiện Công giáo khắp thế giới. Chúng ta nên ghi nhớ câu nói của ngài: "Ðức Bác ái chân thực thì mở tay ra và nhắm mắt lại".
* * *

* Bác ái không có biên giới; nếu có biên giới, không còn là bác ái nữa (ÐHV 787).

* Nếu không triệt để thi hành chúc thư của Chúa Giêsu, là sống bác ái, thì con là đứa con bất hiếu vô phúc thật (ÐHV 806).

Thánh Camillo Lellis (1550-1614) đã lập một Dòng để giúp các bệnh nhân; Dòng ấy có lời khấn thứ tư buộc người tu sĩ phải hoàn toàn dấn thân cho họ bất chấp bệnh truyền nhiễm, vì đó là tiếng gọi của lòng nhân lành Chúa.

Nhưng chúng ta biết, ngay từ thời niên thiếu, Camillo là một quân nhân chỉ biết đua đòi ăn chơi phóng đãng. Ngài đã sống một cuộc đời thanh niên sa đọa, đến nỗi sau cùng phải vào nằm trong bệnh viện Roma. Tại đây, những đau đớn của chính bản thân, nhất là những rên xiết của những bệnh nhân đã khiến ngài xúc động sâu xa và quyết tâm sửa đổi đời sống.

Sau khi trở về cùng Chúa, Camillo đã nhận ra ơn gọi của mình là phục vụ các bệnh nhân nghèo khổ. Bởi đó, trước hết ngài đã tình nguyện giúp việc tại bệnh viện và xin gia nhập Dòng Phanxicô. Khi chịu chức linh mục xong, ngài đã lập một Dòng tu với lời khấn đặc biệt như đã nói. Những lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm: "Ta đau yếu và các con đã thăm viếng" đã đốt lên trong tim ngài một ngọn lửa tình yêu mạnh mẽ đối với những kẻ ốm liệt. Về sau, mặc dầu bị bệnh nhức đầu, lỡ loét bao tử liên miên hành hạ, ngày ngày ngài vẫn vui vẻ chăm sóc bệnh nhân. Ngài bình thản chịu đựng mọi tủi nhục khổ đau và thường nói: "Tôi hằng ước ao có một trái tim rộng lớn như thế giới để bao phủ thế giới bằng ngọn lửa của lòng bác ái đang bốc cháy trong tôi".
* * *

* Khi con giúp ai điều gì, phải hết sức bác ái, để người thụ ân tha thứ cho con, cái nhục họ chịu khi nhận của con (ÐHV 788).

Còn vô số gương bác ái của nhiều vị thánh nam nữ khác nữa, nhưng vì khuôn khổ tập sách, chúng ta không thể kể hết được. Có thể nói vị thánh nào cũng có những gương bác ái, bởi lẽ bác ái là bản chất, là mẫu số chung của cuộc sống các ngài. Vì các thánh, là những người sống trọn vẹn cho tình yêu.

2. Tướng tiền phong của công cuộc bác ái xã hội

* Yêu người là "trách nhiệm chắc chắn về lòng mến Chúa" của con (ÐHV 765).

* Yêu người không phải là vuốt ve nuông chiều họ, nhưng có lúc yêu người là làm phiền lòng họ, vì sự thật và vì lợi ích của họ (ÐHV 766).

Người ấy là ai mà được một danh hiệu cao đẹp như thế?

Thưa: một đứa con hoang người da đen thuộc giai cấp nô lệ, tên Martinô Porres (1569-1639) mà Ðức Gioan XXIII đã suy tôn lên đài vinh quang các thánh vào ngày 6.6.1962 và cũng chính là vị Giáo Hoàng khả kính đã tặng danh hiệu cao quý vừa nói cho ngài.

Suốt đời, Martinô Porres đã luôn giơ tay an ủi kẻ âu lo, thăm viếng chạy chữa thuốc thang cho kẻ liệt lào, nâng đỡ kẻ già nua góa bụa, giúp đáp người cơ khổ túng thiếu, hàn gắn vết thương lòng cho những người cô độc bị áp bức. Mà nhân đức nói trên, Martinô đã thực hành từ tấm bé. Khi còn nhỏ, Martinô lợi dụng những lần mẹ sai đi mua đồ lặt vật để bớt xén tí tiền đem biếu cho những người cậu nghĩ còn cùng khổ hơn. Ðược biết như thế, mẹ Martinô hơi tỏ vẻ khó chịu và nhiều lần trách mắng con. Có lần tức quá bà đã giáng cho cậu một tát tai đau điếng.

Lúc lên 7 tuổi, Martinô đã đủ sáng suốt để nhận thấy rằng thành phố Lima đầy những chướng tai gai mắt. Bên cạnh những lối sống xa hoa trụy lạc do sự bóc lột mà mồ hôi nước mắt của kẻ khác nhan nhản không biết bao nhiêu cảnh cô đơn, nghèo nàn khổ cực. Thế nhưng giữa bao thối nát đen tối ấy vẫn còn sáng lên nhiều mẫu gương tông đồ bác ái đích thực, ảnh hưởng sâu đậm trên tâm hồn của cậu thiếu niên. Ban đầu, mẹ cậu đang ở trong hoàn cảnh nghèo túng cô đơn, thấy con hay giúp người cùng khổ đôi chút tiền bạc thì rất bực mình khó chịu; nhưng dần dần bà suy nghĩ, tỉnh ngộ, đổi ác cảm thành thiện cảm. Bà yêu quý con ngày càng thắm thiết và đã trở thành một vị hiền mẫu giàu lòng bác ái.

Năm 22 tuổi, Martinô xin vào Dòng Ða-minh để làm gia nhân. Nhưng bề trên nhà dòng thấy chàng có nhiều nhân đức nên sau một thời gian đã chọn làm trợ sĩ. Thầy hết sức sống bác ái yêu thương giữa cộng đoàn. Một hôm, tu viện phải khẩn trương thanh toán một món nợ mà chẳng kiếm đâu ra tiền. Cha Bề trên bất đắc dĩ phải mang đi bán một vài báu vật của tu viện. Cha vừa ra khỏi cổng, thầy Martinô đã vội chạy theo, vừa thở vừa thưa:

- Nhà Dòng cần tiền để trả nợ, nhờ ơn Chúa, thưa cha, con có cách trả được!

- Con trả bằng cách nào? Cha Bề trên quay lại hỏi, tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Thưa cha, con là một người da đen hèn hạ, chẳng có chi cho Nhà Dòng. Xin cha cứ bán con đi để lấy chút tiền trả nợ cho người ta. Con xin cha ban cho con đặc ân ấy... Biết đâu lọt vào tay thiên hạ, họ sẽ bắt con làm việc vất vả và hữu ích hơn...

Nghe nói thế, cha bề trên xúc động đến chảy nước mắt. Ngài đăm đăm nhìn thầy Martinô từ đầu đến chân một cách yêu thương trìu mến và ra hiệu bảo thầy quay trở lại nhà dòng.

Ðã chăm làm việc lại có nhiều tài nên thầy Martinô suốt ngày quần quật: hết ở trong kho quần áo lại sang bệnh viện, hoặc lang thang ngoài hè phố để giúp những người nghèo khổ cô đơn. Một hôm đang lúc đi đường, thầy gặp một người áo quần xác xơ tả tơi, mình đầy ung nhọt hôi hám và mắc phải một chứng bệnh đớn đau cùng cực. Thầy bèn cõng người ấy về phòng riêng của thầy ở trong tu viện, đặt nằm thoải mái trên giường, ra sức tắm rửa, thay quần áo, cho ăn uống... Thầy săn sóc bệnh nhân cách tận tụy như săn sóc chính Chúa Giêsu. Thấy vậy, một tu sĩ tỏ dấu bất mãn và lên tiếng trách thầy sao lại đưa đứa ăn mày ghê tởm về phòng và lo lắng quá đàng hoàng. Martinô ôn tồn đáp: "Thưa thầy, tôi nghĩ rằng việc thương người hoạn nạn còn quý gấp vạn lần sự sạch sẽ. Thầy nghĩ xem, mền chiếu tôi có dơ bẩn thì chỉ mất một chút xà-bông là giặt sạch, nhưng cả một suối nước mắt nhân loại cũng không đủ để rửa sạch những vết thương do cái xã hội bất công và ích kỷ gây ra.

3. Cái quần của thánh Gioan Vianney

* Ký sổ vàng, mua vé số, cho áo quần cũ, những việc bác ái để khỏi bị quấy rầy! Yêu thương mới là khó. Hãy để lòng con trong sổ vàng, trong vé số, trong gói áo quần cũ! (ÐHV 740).

* Bác ái là nối dài tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại (ÐHV 792).

Thánh Gioan Vianney thiết tha yêu mến Chúa và các linh hồn. Mấy mươi năm liền, ngài luôn giam mình trong toà giải tội mỗi ngày 18 tiếng đồng hồ để đem các tội nhân về trong vòng tay Chúa. Không những thế, ngài còn luôn canh cánh bên lòng mối bận tâm và cảnh nghèo túng cơ cực của nhân dân. Chính ngài đã lập nên các viện cô nhi, lớp học mẫu giáo và sẵn sàng cho kẻ nghèo tất cả những gì ngài có hay kiếm được.

Trong lúc tòa án giáo phận Belley đang tiến hành việc điều tra về hạnh tích của vị linh mục, để lập hồ sơ xin phong thánh, thì có một cụ già quê mùa nghèo khó đến làm chứng như sau:

"Hôm ấy, trời đã sầm tối, tôi thấy cha Vianney đi giúp tuần đại phúc ở một xứ xa về; giữa đường vắng chỉ có tôi với ngài; vừa gặp tôi, ngài liền lên tiếng chúc một cách vui vẻ:

- Chào ông, mấy lâu nay có được sức khỏe không? Công việc làm ăn ra sao?

- Chào cha, dạ cám ơn Chúa, con cũng thường luôn; nhưng chẳng giấu gì cha, con túng thiếu quá, mất liên tiếp ba vụ mùa liền!

- Tội nghiệp! Tôi thương ông và các cháu lắm! Chúng nó rất ngoan.

Vừa nói ngài vừa xỏ tay vào túi áo, lục soát khắp cùng mà cũng chẳng lôi được một xu. Nhìn trước nhìn sau, ngài ghé vào tai tôi bảo nhỏ:

- Ông chịu khó đợi cha một chút nghe!

Tôi vâng lời đứng đợi. Ngài rón rén đi ra sau một lùm cây... Mấy phút sau ngài trở lại, trao tận tay tôi một vật và nói:

- Cha không còn gì cả. Ông vui lòng lấy cái quần của cha đây đem bán mà mua bánh mì cho các cháu. Ông thông cảm, bữa sau có gì cha sẽ giúp cho thêm. Thôi chào ông nhé!

Tôi chưa kịp cám ơn vì quá xúc động nghẹn ngào thì bóng dáng ngài đã biến mất sau hàng cây ở trước mặt..."
* * *

Cũng trong dịp điều tra để phong thánh cho vị linh mục thánh thiện, một bác nhà quê khác đã làm chứng rằng: "Tôi quê mùa chất phác, chẳng biết nói chi, chỉ xin thưa thế này: Tôi nghĩ Thiên Chúa hẳn tốt lành vô cùng vì cha sở chúng tôi là một người phàm giữa thế gian mà đã tốt lành quá sức tưởng tượng..."

4. Bác ái trong cuộc sống thường ngày

* Khi nào con đi công tác cho Ðức Mẹ một cây số xa nhà con, chưa chắc con đã sống bác ái thật. Chừng nào con dám công tác bên cạnh nhà con, đến với những người nghe thấy con mỗi ngày, cha mới tin con bác ái thật! (ÐHV 738).

* Cộng đoàn nào có một thánh tu hành thì thánh ấy hay làm cho cộng đoàn có nhiều thánh tử đạo (ÐHV 760).

* Tính xấu của tôi, gọi là nhân đức. Thiện chí của anh em tôi gọi là khuyết điểm (ÐHV 763).

* Con không thiếu khuyết điểm, sao con tức tối và tấn công khuyết điểm của anh em? (ÐHV 764).

* Bác ái là tu đức liên lỉ: tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc.. Tất cả con người con vẫy vùng, nhưng con phản ứng yêu thương, như Chúa Giêsu (ÐHV 797).

Chị thánh Têrêxa Hài Ðồng không bỏ qua một dịp nào mà không hy sinh vì lòng mến Chúa. Chị nên của lễ toàn thiêu suốt ngày. Chúng ta hãy nghe chị thuật lại câu chuyện đơn sơ nhưng đầy can đảm nhẫn nại sau đây để rồi đến phiên ta, ta cũng hãy làm như chị:

"Con còn nhớ hồi con còn nhỏ ở nhà tập, Chúa đã có lần soi sáng cho con thấy một việc bác ái mới. Việc làm tuy nhỏ, song Chúa là Cha, thấu suốt mọi sự kín nhiệm Ngài đã xem chủ ý của con hơn là việc làm bên ngoài của con nên đã ban thưởng cho con ngay ở đời này. Ðó là những lúc chị Saint-Pierre phải xuống nhà cơm hay là xuống ca hội. Giờ nguyện gẫm buổi chiều, chị ngồi ở hàng ghế ngay trước mặt con, cứ tới sáu giờ kém mười phút thì phải có một chị bỏ dở nguyện gẫm để dìu chị xuống phòng ăn, vì hồi đó trong nhà có nhiều người đau khiến các chị y tá không thể đích thân đến rước chị đi được. Mà tất cả đều biết việc này không phải là chuyện dễ. Rất khó làm cho chị Saint-Pierre vừa ý. Chị đau nhiều quá nên hễ động một chút là rên. Tuy nhiên con không muốn bỏ lỡ một cơ hội thi hành đức yêu thương vì nhớ lại Lời Chúa đã phán: "Khi các con làm một việc gì cho anh em hèn mọn nhất của Ta là các con đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25,40). Thành thử một hôm con hết sức khiêm tốn đến xin giúp chị. Nguyên việc thuyết phục chị chấp thuận cái ý nguyện này cũng đã khó rồi. Cuối cùng, nhờ biết ăn nói khéo léo, con đã thành công mỹ mãn.

Thế là một buổi chiều, khi thấy chị Saint-Pierre lắc cái đồng hồ cát của chị thì con hiểu ý chị muốn nói: Thôi ta đi! Ðầu tiên, con cảm thấy rất ngại, tuy nhiên con cũng vội vã đứng dậy, và các nghi thức bắt đầu. Nguyên việc nhắc cái ghế cho chị cũng có một nghi thức riêng, phải nhắc thật khoan thai, không được vội vã. Sau đó là khởi hành. Phải vừa đi theo vừa đỡ chị ở chỗ thắt lưng. Con phải đỡ nhẹ hết sức, nhưng nếu chẳng may bước lỡ một bước thì lập tức chị làm như thể tại con không biết nâng chị, rồi vừa lảo đảo muốn té vừa bảo: "Chúa ơi! Chị đi mau quá! Tôi ngã bây giờ!" Nếu con cố gắng đi chậm hơn thì chị lại nói: "Theo tôi mau lên! Tôi chẳng thấy tay chị đỡ tôi gì cả. Chị buông tôi ra, tôi ngã đây này. Thì tôi nói có sai đâu: Chị còn trẻ quá, đâu có dắt tôi được!" Thật là may nếu chúng con vào nhà cơm mà không có tai nạn nào. Nhưng đến đó lại gặp những khó khăn mới: Phải khéo léo để giúp chị ngồi xuống mà không làm phật lòng chị, rồi lại phải xem tay áo cho chị (phải biết cách xắn mới được) bây giờ công việc kể như xong. Nhưng rồi nhận thấy hai bàn tay tật nguyền của chị lấy bánh bỏ vào tô cách khó khăn, nên con lại giúp chị luôn việc này nữa. Sau đó con nở một nụ cười rất tươi rồi mới đi. Thấy con để ý giúp chị như thế, chị cảm động lắm. Dần dần, nhờ cách giúp đỡ tự nhiên ấy mà chị thích con, và sau cùng trở nên hết sức dễ dãi.

... Khi dìu chị Saint-Pierre, con làm với tất cả lòng mến của con. Nếu có dìu Chúa Giêsu thật sự, con cũng không thể làm hơn được nữa".

5. Nhìn người khác với con mắt Thiên Chúa

* Trước khi xét đoán, con hãy cầu nguyện rồi hãy làm như Chúa Giêsu trong trường hợp con (ÐHV 737).

* Nếu con khen người khen con, chấp nhận người không phản đối con, giao tiếp với người đồng ý kiến với con, con không bác ái cũng không sáng suốt: Mù dắt mù (ÐHV 759).

* Chúng ta phải biết cám ơn lẫn nhau. Người nhận: vì được yêu thương giúp đỡ. Người cho: vì được dịp lớn lên trong tình yêu (ÐHV 771).

* Tại sao ngày nào con cũng lập tòa án và bắt anh em con diễn hành lần lượt qua đó? Tại sao lúc nào cha cũng thấy con ngồi ghế quan tòa, không bao giờ ngồi băng bị can? (ÐHV 772).

* Tại sao con ghi khắc khuyết điểm của người vào bia đá, còn tội lỗi của con thì viết trên cát (ÐHV 776).

* Hạnh phúc cho một huynh đệ đoàn là gì? Là "Phúc cho kẻ bị bắt bớ". Ðúng vậy! Ðây là một cuộc bắt bớ có tổ chức, có thời khóa biểu, có luật lệ. Những cuộc bắt bớ này đem lại sự cứu chuộc, vì đặt con trong ý nghĩa của lịch sử và của Hội Thánh là xã hội hóa trần gian (ÐHV 778).

* Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết trên đó đức tính của người con bất bình, con sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ từ đầu (ÐHV 783).

* Ðừng phàn nàn cà phê đắng, chỉ tại đường của con không ngọt đủ (ÐHV 790).

Cha Gaston Courtois là một vị giảng phòng thời danh và là một nhà linh hướng khôn ngoan, thánh thiện, giàu kinh nghiệm rất được các linh hồn mến phục. Ngài có thuật lại câu chuyện như sau:

"Một nữ tu nọ đến gặp tôi và nói với giọng đầy xúc cảm:

- Thưa cha, con chịu không nỗi nữa, đời sống cộng đoàn làm con ngột ngạt quá. Con đã phấn đấu nhẫn nại, nhưng nay con quá căng thẳng. Xin cha giúp con, nếu không thì...

- Cha nghe con, con cứ thành thật nói những gì đè nặng trên lòng con.

- Thưa cha, dĩ nhiên sống chung thì không làm sao tránh khỏi những va chạm, con chấp nhận thế; nhưng vô phúc cho con vì gặp phải một chị... không chút thiện cảm tí nào. Chị hay phê bình chỉ trích con nhịn mãi không được nên chính con cũng phê bình chị lại. Con thấy nơi chị cái gì cũng xấu cả. Con không thể nào nhìn mặt chị được, đâu có chị là con tránh đi ngay để khỏi bực tức và sinh tội.

- Con giữ đức bác ái sao lại không thương yêu chị ấy?

- Con biết Chúa dạy phải yêu thương cả kẻ nghịch của mình nữa. Song con thú thực với cha, đối với ai cũng được nhưng đối với chị ấy thì con ghét cay ghét đắng, ngửi không được, chịu cũng chẳng nổi!

- Chị ấy xấu lắm sao?

- Thì con đã thưa với cha: chị ấy xấu hết chỗ nói: kiêu ngạo, phê bình, chỉ trích, nóng nảy, hay hờn dỗi, nói xiên nói xỏ, chua cay đắng đót, kể ân kể nghĩa, khoe khoang cùng mình... Nói tóm là xấu từ đỉnh đầu đến dưới bàn chân, từ trong ruột ra tới ngoài vỏ... Con không thể nào chịu nổi được nữa. Quá sức tưởng tượng!

- Con khẳng định chị ấy hoàn toàn là xấu?

- Thì cha không tin con sao? Không lẽ con bịa đặt ra à? Con đã cố gắng hiểu tốt cho chị ấy. Nhưng không thể được.

- Ðây, cha trao cho con một tờ giấy và một cây bút, con khởi sự viết cho cha các tính tốt của chị ấy đi!

- Chao ôi, có đâu mà viết! không lẽ cha bắt con bịa đặt ra sao!

- Con cứ bình tĩnh suy nghĩ xem! Không lẽ xấu đến thế mà người ta lại cho ở trong nhà dòng à?

- Thế mới khốn nạn chứ. Ở với nhau tưởng là thiên đàng, hóa ra là địa ngục, chín tầng địa ngục!

- Bây giờ cha giúp con tìm thử xem chị ấy có mấy tính tốt nhé!

- Vâng, con đã đến đây thì xin vâng lời cha. Ðố mà tìm được! Cha tìm ra một tính tốt, con phục sát đất!

- Chị ấy giờ giấc có đúng theo thời khắc biểu trong nhà không?

- À... chuyện này thì có!

- Con ghi vào đi, số 1. Chị ấy có vâng lời bề trên không?

- Chả biết trong lòng thế nào, chứ bề ngoài thì vâng lời triệt để.

- Ghi vào, số 2. Bổn phận của chị, chị có chu toàn không?

- Thưa cha chị ấy lo làm vườn và nuôi lợn nuôi gà. Mà nhờ khoẻ như trâu nên lúc nào cũng vượt chỉ tiêu cả, làm con chạy theo đến hụt hơi muốn chết.

- Thế là con ghi thêm điểm tốt số 3. Khi ai nhờ vả chị ấy chị có sẵn sàng giúp đỡ không?

- Dạ có! chị đã nhận giúp ai việc gì là làm hết sức tận tụy.

- Con ghi vào điểm tốt số 4.

Cha Gaston Courtois cứ hỏi và chị nữ tu ghi gần hết trang giấy. Ngài dịu dàng bảo:

- Thôi, ngang đây cũng tạm đủ rồi. Từ đây con phải nghe lời cha, trước khó sau dễ: Con hãy yêu Chúa Giêsu trong chị ấy. Con để trang giấy này trên bàn của con và hằng ngày nhìn vào các đức tính của chị để tìm hiểu chị và yêu mến chị. Mỗi khi cảm thấy khó chịu, con đọc một kinh Kính Mừng và cầu nguyện cho chị. Nhất là con cố gắng tươi cười với chị, đừng tìm cách lẩn tránh, ngược lại, phải tìm dịp tiếp xúc chuyện vãn với chị, giúp đỡ chị hay nhờ chị giúp con.

- Thà cha bắt con ăn chay đánh tội một ngàn ngày còn hơn bắt con làm công việc ấy. Khó quá cha à!

- Con cố gắng đi, vì mến Chúa. Con xin Ðức Mẹ giúp con, cha cũng cầu nguyện cho con. Rồi đúng một tháng sau con đến gặp cha lại. Nếu không nghe lời cha thì đừng bao giờ đến gặp cha nữa!
* * *

Một tháng trôi qua, chị nữ tu lại đến gặp cha Gaston Courtois.

- Thế nào, báo cáo lại cho cha nghe coi.

- Liều thuốc cha cho con uống đắng quá, nhưng con đã phấn đấu và bắt đầu có kết quả rồi cha ạ! Con bớt căng thẳng, chúng con đã có dịp trao đổi với nhau năm ba câu. Chị ấy giúp con đôi việc nhỏ, con cũng đã giúp chị vài chuyện lặt vặt... Nhưng bên nào cũng còn giữ thế, chỉ đối xử dò chừng vậy thôi!

- Hoan hô con! Hãy cám ơn Chúa và xin Mẹ Maria giúp thêm. Chúng ta cầu nguyện và chiến đấu thêm hơn nữa với bản thân mình, còn chị ấy con hãy giao cho Chúa. Con đã bước cái bước khó nhất, bây giờ hãy mạnh dạn tiến thêm hơn nữa. Hẹn con tháng sau nhé!....

Từ đây mỗi tháng, chị nữ tu đều gặp cha Gaston Courtois một lần, báo cáo những bước tiến khả quan hơn. Hai bên đối phương đã xích lại gần nhau, đã dám đối thoại với nhau cách thẳng thắn. Dần dần những tháng sau đó, kẻ thù không đội trời chung đã hóa thành bạn hữu: Cả hai đã "bình thường hóa quan hệ" giữa nhau, câu chuyện nhỏ to đã "thắm thiết tình hữu nghị".

Tháng thứ năm, chị nữ tu đến gặp cha Gaston Courtois với nét mặt hớn hở thoải mái:

- Thưa cha, con chịu thua cha rồi! Con xin đầu hàng! Trước đây con đến gặp cha với một tâm hồn bi đát, thất vọng. Giờ đây con lại đến với một tâm hồn tràn ngập hy vọng vui tươi. Chúng con đã hiểu nhau, mọi mây mù đã tan biến nhường chỗ cho khung trời sáng sủa. Chúng con đã trở nên đôi bạn thân, dễ dàng tâm sự và nâng đỡ nhau về mọi mặt. Từ đây, cha khỏi bắt con suy nghĩ về các đức tính của chị ấy nữa, kẻo con sẽ yêu riêng chị mà làm tổn thương đến tình đoàn kết hiệp nhất trong cộng đoàn!

- Không phải cha thắng, nhưng chính trái tim Mẹ Maria, chính tình yêu Chúa Giêsu đã giúp cha con mình chiến thắng... Cha chia vui với con, và con hãy cứ vui tươi mà sống như vậy! Sau cơn mưa trời lại quang đãng! Có Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse ở giữa các con luôn!

6. Ðừng tiếc lời khen hay nụ cười thân ái

* "Tôi không làm việc bác ái được vì tôi không có tiền! Chỉ có tiền mới bác ái sao? - Bác ái của nụ cười, bác ái của bắt tay, bác ái của thông cảm, bác ái của thăm viếng, bác ái của cầu nguyện (ÐHV 741).

* Ðừng đợi gần chết mới làm hòa với nhau. Ðừng để gần chết mới phân phát của cải. Bác ái: "chẳng đặng đừng", bác ái "bất đắc dĩ", con sẽ tiếc vì yêu thương quá chậm (ÐHV 742).

* Người ta không cần của con! Người ta không cần con cho, bằng cần con hiểu họ, thương họ! (ÐHV 743).

* Ðừng tức tối vì người ta chỉ trích con, hãy cám ơn vì con bao nhiêu tồi tệ mà họ chưa nói (ÐHV 744).

* Cuộc sống huynh đệ thử thách và nâng đỡ tình bác ái, cây trên rừng che đỡ nhau khỏi ngã lúc gió bão (ÐHV 746).

* Chúa nói: "Nếu ai mất lòng con, hãy để của lễ, về làm hòa với người ấy..."; còn con, con làm ngược lại: "Cứ dâng của lễ và phóng thanh cho mọi người biết, trừ ra gặp đương sự." Tin mừng của con! (ÐHV 752).

* Con chủ trương phải đối thoại, nhưng con không chấp nhận ai nói trái ý con. Ðó là "đối thoại có chương trình và giới hạn" hay nói đúng hơn: hai người độc thoại (ÐHV 753).

* Tại sao con hà tiện một tiếng khen? Tiếc một nụ cười? Một siết tay với người ta? Bao nhiêu người không cần bạc tiền, chỉ cần lòng con (ÐHV 785).

Cũng chính cha Gaston Courtois thuật lại chứng tích sau đây:

- Một cha phó trẻ tuổi đến gặp tôi với vẻ mặt buồn thiu ảm đạm:

- Thưa cha, con đau khổ quá, con định lên Tòa Giám mục xin thuyên chuyển đi xứ khác!

- Tại sao thế? Con cứ nói hết đầu đuôi câu chuyện cho cha nghe. Cha sẵn sàng giúp con.

- Con nghĩ con thực xấu số: mới tập tễnh vào đời mà gặp một cha xứ quá tệ! Bầu không khí nhà xứ nghẹt thở lắm, cha ạ! Không ngày nào mà không có chuyện va chạm xích mích. Giờ cơm đúng ra là buổi thân mật nhất, vui vẻ nhất lại là lúc im lặng nặng nề, ai cũng cúi đầu ăn cho xong mà đi. Ăn cũng chẳng biết ngon lành gì nữa. Do đó, đời sống thiêng liêng cũng bị ảnh hưởng, lại sinh thêm gương xấu cho giáo dân...

- Ngài khó tính lắm sao?

- Hết chỗ nói! Vừa lạc hậu vừa độc đoán, không bao giờ chấp nhận đối thoại, xem người không bằng ngọn rau má!

- Ngài hay chỉ trích con lắm à?

- Gặp ai ngài cũng chê bai cha phó, cha thấy có tệ hại và chán nản cho tuổi trẻ không! Nào là ít kinh nghiệm, nào là bồng bột, nào là thiếu nghiêm trang, cứ hay chơi đùa với thanh niên, trẻ con, nào là dạy giáo lý không đúng. Ngài muốn con giáo dục thanh thiếu niên theo kiểu xưa, dùng sách giáo lý cổ lỗ sỉ mà dạy thế thì đứa nào thèm nghe! Muốn bệ vệ như ngài thì con lúng túng quá và không cách nào chịu được!

- Thế con có bao giờ chỉ trích ngài không?

- Con phải công nhận là có. Vì con phải bênh vực lập trường của con chứ! Con đã phê bình ngài trước mặt nhiều người. À, mà ngài lại còn hà tiện lắm nữa kia! Con mới ra trường, không có được xu mô. Tuần trước, đưa thiếu nhi đi cắm trại liên hoan sau ngày rước lễ vỡ lòng, con đến xin ngài lì xì; ngài đã không cho thì thôi, lại còn phê thêm một câu chua như giấm: "Các cha đời bây giờ chả làm nên được cái gì cả, chỉ ham chơi đùa với cắm trại!". Dẫn bầy trẻ đi, con phải rán vui nhưng trong thâm tâm thực đắng cay chua xót. Cha thấy có khổ không?... Thú thực với cha, con năng bàn chuyện cha xứ với giáo dân lắm!

- Cha thông cảm với con, nhưng con hãy bình tâm suy nghĩ lại. Ai lại không có tính khí, có lập trường của mình. Nhất là người càng lớn tuổi thì càng giữ quan điểm của thời họ, của lối giáo dục mà họ đã hấp thụ. Sau con đến tuổi già cũng dễ mắc phải tật ấy. Con phàn nàn với người ta về cha xứ, tất nhiên có kẻ mách lại cho ngài biết, và như thế ngài sẽ chỉ trích chê bai con lại. Thế là hết tình nghĩa huynh đệ và càng đắng cay chua xót với nhau hơn. Con đã đến với cha thì cha bàn với con thế này. Con thấy ngài có điểm nào có thể khen được không?

- Chịu? Con thấy ngài như cái hũ cũ, chả có gì mà khen cả!

- Thế con thấy ngài giảng thế nào?

- Kể ra không hấp dẫn mấy, nhưng mà có dọn trước, có bố cục, mạch lạc đàng hoàng; kiểu cổ điển: có mở đầu, kết luận...

- Ngài có chịu khó ngồi tòa giải tội không?

- Cha thì thực là khéo hỏi chuyện! Về vấn đề ấy thì con thua xa ngài. Ngài ngồi tòa thực là kiên trì, và ai xin giờ nào ngài cũng sẵn sàng cả.

- Sổ sách các phép ngài làm có phân minh không?

- Ngài khó tính thì thật là khó tính nhưng sổ sách thì ngài ghi từng ngày một, rõ ràng minh bạch, không chê vào đâu được...

- Bây giờ cha xin con nghe cha: Từ đây ngài có nói gì con thì mặc ngài, trước sau thì ta vẫn là ta; nhưng ngược lại, phần con, vì hy sinh, vì yêu mến Chúa trong ngài, nếu con phải phấn đấu sống với ngài thật là bác ái huynh đệ. Và để ngài xác nhận là con tốt với ngài, cha đề nghi con lợi dụng tất cả mọi dịp để khen ngài. Không phải cha bảo con tâng bốc hay cho ngài đi tàu bay giấy, nhưng con nên khen những điểm tốt mà chính con vừa xác nhận đó! Can đảm lên! Mẹ Maria sẽ giúp con. Tháng sau con tới lại!

Ba mươi ngày trôi qua, cha phó ấy lại đến gặp tôi. Vừa bắt tay ngài đã vội vàng nói:

- Cha ơi có nhiều chuyện vui lắm! Ðể con thuật lại cha nghe!

- Cha vẫn cầu nguyện và mong tin của con.

- Nghe lời cha con về phấn đấu hết sức, lắm lúc phải vận dụng hết tâm lực để dằn lòng xuống mà tươi cười niềm nở với ngài. Hôm chúa nhật, sau bài giảng của ngài, con vào phòng thánh gặp ông từ hỏi ngay: "Ông có nghe cha xứ giảng không? Thực là mạch lạc và sốt sắng! Lúc nào tôi cũng chăm chỉ theo dõi để học cách giảng của ngài". Ba ngày sau, lúc lên làm lễ, gặp ông từ, ông vội đến sát tai con nói khẽ với con: "Con có thuật lại lời cha hôm nọ cho cha xứ nghe, ngài vui vẻ bảo con: "Ông từ thấy chưa, đó là một cha phó còn trẻ mà trí xét đoán rất đúng đắn". Chiều thứ bảy, ngồi tòa xong, con đi xuống bếp và nói với bà bếp: "Tôi còn trẻ mà mới ngồi tòa có một lúc mà đã nghe mỏi mệt cả người, thế mà cha xứ thật là nhẫn nại; ngài ngồi lâu mấy cũng được, ai xin lúc nào cũng sẵn sàng". Ít hôm sau bà bếp mách lại với con: "Cha biết không, con thuật lại lời cha nói bữa chiều thứ bảy cho cha sở nghe; ngài có vẻ đắc chí, vừa cười vừa nói: "Ðấy bà xem cha phó này có lòng khiêm nhượng, biết kiểm điểm mình và đánh giá những điều hay của kẻ khác mà bắt chước. Bà gắng nấu nướng bồi dưỡng cho ngài. Trông ngài độ này hơi xanh..." Con cũng có dịp nói chuyện với các mẹ gia đình và lúc kết thúc đã chêm vào một câu: "Tôi về đây thực là may mắn vì học được rất nhiều đức tính nơi cha sở, đặc biệt sổ sách của ngài thật là phân minh, ngày nào xong ngày ấy không bao giờ để lại hôm sau, cẩn thận số một. Về sau có bà đến bảo riêng con: "Chúng con có thuật lời cha cho cha sở nghe, ngài cười và bảo chúng con: "Cha phó ngày càng tiến bộ, bây giờ ngài hiểu cách tôi điều hành giáo xứ, chịu khó học hỏi lắm. Thực may mới có được một cha phó như thế!" Bầu không khí giữa ngài với con dần dần thêm phần thoải mái cởi mở. Những bữa cơm không còn là giờ cực hình nữa mà là lúc đàm thoại thân mật. Chúa nhật vừa qua ngài còn cho con 100 phật lăng để đem các thiếu nhi đi trại dịp Bổn mạng giáo xứ. Thực may nhờ có cha...

- Bây giờ, con còn đòi lên Ðức Cha xin thuyên chuyển nữa không?

- Hết rồi, cơn khủng hoảng đã qua. Bây giờ lại sợ đổi đi là đàng khác!

7. Vì bác ái phải đau khổ

* Con không lượng được người say rượu có thể làm hại thế nào! Ðâm chém, đốt nhà, giết người... Khi con say vì đam mê hận thù, con càng mất sáng suốt hơn thế nữa (ÐHV 747).

* Ðâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa; đâu có thù ghét ở đó có hỏa ngục (ÐHV 749).

* Trong một giây, một chấm phết, bất cứ ai cũng có thể bôi nhọ bức họa vô giá của Raphael, đã tốn bao công phu, thời giờ mới thực hiện, nhưng ai làm lại được? (ÐHV 751).

* Lời bất công của người công chính vô cùng ác hại. Ðó là thuốc độc do tay bác sĩ trao. Toa thuốc ấy càng truyền ra, càng giết người (ÐHV 757).

* Môi trường đòi buộc con thinh lặng hoạt động, con cứ thích nghi môi trường và đi đến đâu con hãy "gieo rắc tình yêu". Con sẽ ngạc nhiên, vì một ngày kia, nhìn lại những nơi con đã đi qua, hạt giống tình yêu đã nặng trĩu gấp mười, gấp trăm nơi tâm hồn những người Chúa Quan Phòng định cho gặp con trên đường hy vọng (ÐHV 777).

* Những ai tổ chức vu cáo, thóa mạ, xúi giục căm thù, chống đối, dù với mục đích nào, cũng không che giấu được tính cách phản Phúc Âm. Vì Chúa là tình yêu (ÐHV 782).

* Sao con trách móc, khi người ta phủi ơn con? Công nghiệp của con mất đi sao? Hay là con bắt Chúa cám ơn con? "Ai làm cho một người hèn mạt nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta." (ÐHV 784).

* Con tốt, người ta nói xấu, con vẫn tốt. Con nghèo, người ta khen con giàu, con vẫn nghèo. Tại sao con lên ký và sút ký theo dư luận? (ÐHV 794).

* Ðừng đê hèn nói xấu người vắng mặt. Hãy nói như lời con được ghi âm, hành động như cử chỉ con được chụp hình (ÐHV 805).

Một phụ nữ tên là Nêrêa Caggianô ước ao vào dòng tu và chị đã trình bày ước nguyện ấy với thầy Giêrađô Magella, trợ sĩ Dòng Chúa Cứu Thế. Nhờ một số giáo dân ở thị trấn Lacédoine giúp đỡ, thầy đã trao cho chị đủ số tiền hồi môn để nạp vào một dòng nữ Chúa Cứu Thế có tiếng là đạo đức thánh thiện tại thành Foggia (Ý). Nhưng khi cơn sốt sắng ban đầu như lửa rơm phực cháy ấy đã qua, chị Nêrêa đâm ra nhớ gia đình, buồn nản và một tháng sau, "tân nữ tu" lủi thủi trở về nhà cha mẹ. Thay vì nhìn nhận mình không đủ thiện chí để bền đỗ trong nếp sống tu tập, chị ta lại kiếm một cách để chữa mình, kể cả nói xấu các bà dòng. Nhưng giáo dân trong vùng ai nghe được những lời của chị cũng đều mau miệng cải chính: Thầy Giêrađô vốn rất quan tâm lo lắng cho các nữ tu ấy được lòng đạo đức sốt sắng, nếu họ xấu xa như chị nói thì thầy lại đưa chị vào tu trong ấy làm gì!" Chị Nêrêa nêu đủ lý do để phân trần nhưng tất cả đều bị họ bẻ gãy. Cuối cùng chị đâm ra ghét luôn cả thầy Giêrađô. Hễ nghe ai nói đến thầy là chị lắc đầu bỉm môi: "À! Thầy Giêrađô! Thầy ấy đâu có hay ho gì...!" Những chữ cuối cùng được chị bỏ lửng một cách có hậu ý làm người nghe hiểu ngầm như thầy Giêrađô có chuyện chi đó rất bí mật, không tiện nói ra. Thế nhưng, chẳng một ai chịu tin vào luận điệu của chị.

Bấy giờ, chị Nêrêa bèn quyết định đánh ván bài xả láng...

Trước tiên chị làm đủ mọi cách để được một linh mục khôn ngoan, có uy tín chấp thuận làm cha linh hướng và cha giải tội của chị, đó là linh mục Benigno Bonaventura. Ðể được ngài tin, chị giả vờ sống thật đạo đức, siêng năng hãm mình chịu khó. Khi thấy ngài có lòng tin tưởng, chị liền cả gan phạm sự thánh, lợi dụng ngay cả phép giải tội để bỏ vạ cáo gian thầy Giêrađô. Chị nghĩ rằng nếu thầy Giêrađô mang tiếng xấu thì chẳng còn một ai tự ý chế nhạo chị về việc bỏ dòng ra về nữa, vì họ sẽ cho rằng thầy Giêrađô là người tào lao bê bối, đã lầm lỡ đưa chị vào một dòng khô khan nguội lạnh nên việc rút lui là một điều dĩ nhiên.

Thế là một ngày kia, chị Nêrêa vào toà giải tội và thưa với cha Bonaventura rằng: "Cách đây không lâu, thầy Giêrađô đi qua thị trấn Lacédoine và tạm trú tại nhà ông Constantin Capucci, để hôm sau, cùng với ông Capucci đưa hai cô gái của ông ta vào dòng. Ở nhà ông còn có hai cô gái nữa; một trong hai cô ấy lại là người có tính nhát sợ và rất ít nói. Hôm thầy Giêrađô tạm trú ở nhà ông Capucci, chính thầy đã có chuyện đồi trụy xấu xa với cô ta..."

Nêrêa khai rất tỉ mỉ, đầy đủ chi tiết về ngày giờ, nơi chỗ... và nêu rõ chính chị đã chứng kiến cảnh tượng ấy. Chị nói còn có thể viện ra nhiều nhân chứng khác nhưng vì đức bác ái, chị chẳng muốn lôi nhiều người vào cuộc kẻo to chuyện. Rồi chị yêu cầu cha Bonaventura phải trình bày với bề trên Dòng Chúa Cứu Thế về "vụ thầy Giêrađô", cốt để cho câu chuyện được thêm phần đáng tin hơn. Cha bèn bảo chị cứ làm một tờ đơn báo cáo. Ðoạn ngài ghi thêm vài hàng chữ giới thiệu vào đơn ấy trước khi gửi đến thánh Anphongsô, bề trên tu viện và cũng là bạn thân của ngài.

Ðọc lá đơn xong, thánh Anphongsô đau đớn vô cùng. Vì một đàng, ngài rất tín nhiệm cha Bonaventura, đàng khác ngài biết rõ thầy Giêrađô là một tu sĩ rất mực thánh thiện. Nhưng ngài cũng biết dầu các thánh cũng còn có thể yếu đuối sa ngã, nên dù không hoàn toàn tin tưởng vào bức thư, ngài vẫn cho tiến hành việc điều tra về vụ ấy...

Cha Villani được ngài sai đến nhà dòng Illicêtô, và kết quả sơ khởi cho biết cả hai điều mà bức thư của Nêrêa tố cáo đều đúng: Thầy Giêrađô có đi Lacédoine và có tạm trú tại nhà ông Capucci.

Thánh Anphongsô rất đau khổ vì câu chuyện làm tổn thương đến danh dự nhà dòng rất nhiều. Ngài e ngại rằng đây không phải là một huyền thoại mà là một sự thật!!! Ðau đớn biết bao! Hôm sau, ngài trình bày tất cả mọi chuyện cho thầy Giêrađô hay. Giêrađô im lặng lắng nghe, không tỏ một chút gì xúc động; và như Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn, thầy đã thinh lặng chẳng hé môi đối chất nửa lời. Thầy nghĩ rằng mình phải luôn luôn giữ đúng tinh thần từng chữ trong luật dòng: "Khi bề trên bảo ban sửa dạy, hãy khiêm tốn chấp nhận và đừng tự bào chữa".

Giêrađô làm thinh, và như thế bề trên có thể hiểu là thầy đã nhận tội. Nhưng thánh Anphongsô vẫn nhất mực kính mến thầy, ngài chẳng hoàn toàn tin tưởng vào các lời tố cáo. Dầu thế, vì có chứng cớ rõ ràng mà thầy Giêrađô lại không nói gì hết nên buộc lòng phải ra hình phạt:

- Cấm thầy không được rước lễ.

- Không được gặp khách hay nhận gởi thơ từ cho bất cứ ai.

Giêrađô thinh lặng cúi đầu nhận lấy hình phạt cùng tất cả tủi nhục đớn đau một cách bình tĩnh, khiêm tốn. Thầy bị giam lỏng ở tu viện Pagani. Một số anh em trong Dòng thấy thầy bị phạt mà chẳng hiểu nguyên cớ ra sao, một số bạn bè tâm phúc và một ít linh mục trong dòng biết rõ câu chuyện đều bảo thầy phải tự bào chữa. Thầy Giêrađô suy nghĩ một lúc rồi dịu dàng đáp lại: "Anh em muốn ngăn cản không cho tôi chịu khó vì Chúa sao? Tôi muốn vâng theo thánh ý Chúa vô điều kiện. Tôi cầu nguyện cho những người vu cáo tôi". Sợ mình phải tội cố chấp, thầy xin được gặp cha linh hướng Margotta để trình bày mọi sự? Ngài cũng đồng ý như vậy; cứ giữ thinh lặng, sự thật sẽ giải thoát tất cả.

Mặc dù rất đau khổ và xấu hổ, thầy Giêrađô vẫn giữ trọn niềm tin yêu, phó thác, cậy trông vào Chúa. Có gian nan chí khí và sự thánh thiện của con người mới rạng sáng. Ðối với thầy, nỗi đau đớn nhất không phải là sự hiểu lầm, xấu hổ, nhưng là không được chịu lễ hằng ngày. Thầy luôn luôn tự bảo: "Tôi đau khổ lắm, nhưng không sao cả, miễn là tôi có Chúa trong lòng".

Hôm nọ, có một cha trong dòng đề nghị thầy giúp lễ cho ngài, vì thầy thường tỏ ra ái mộ việc giúp lễ lắm. Thế nhưng, lần này thầy lại kiên quyết từ chối và giải thích cách đơn sơ: "Thưa cha, cha đừng cám dỗ con. Ở gần bàn thờ mà không rước Chúa thì con chịu không nổi. Con sẽ giành Chúa trên tay cha!..."

... Mấy tháng sau, nhân dân trong vùng được tin chị Nêrêa ốm nặng sắp ly trần. Cùng với cơn bệnh đang hoành hành, lương tâm đã cắn rứt giày xéo chị. Chị quá khủng khiếp lo sợ nên cuối cùng đã thú hết mọi chuyện về "vụ thầy Giêrađô" với cha Bonaventura. Ngài buộc chị phải rút lại những lời vu cáo độc địa trên. Chị đã viết một bức thư rút lại tất cả và tự tay ký tên vào dưới bức thư đó. Bức thư được chuyển từ Lacédoine tới tận tay thánh Anphongsô. Ngài vui mừng quá đỗi: thầy Giêrađô yêu dấu của ngài thực đúng là người trong trắng vô tội. Thầy đã chiếu toả một tấm gương bác ái anh hùng và rất mực thánh thiện trong suốt cơn thử thách đau khổ ê chề.

Niềm vui lan đến các tu viện xa gần, đến tâm hồn hết mọi giáo hữu. Từ đó, thầy Giêrađô càng được yêu mến cảm phục.

8. Chơi vẽ chân dung

* Nếu Thiên Chúa chỉ dạy mến Chúa thì hay quá! Nhưng Ngài thêm luật yêu người cũng trọng bằng luật mến Chúa thì thực là vô cùng rắc rối! Phức tạp cho nhiều người (ÐHV 775).

* Một bộ máy, dù tinh vi và kiên cố đến đâu, nếu các bộ phận khô dầu cũng hư hỏng. Hãy rót dầu bác ái của con vào để máy chạy điều hòa không sứt mẻ (ÐHV 791).

* Con phải nói được cách thành thực rằng: "Tôi không xem ai là kẻ nghịch của tôi, kể cả những người căm thù tôi nhất, những người bắt bớ tôi, thề không đội trời chung với tôi. Tôi luôn luôn xem họ là anh em tôi" (ÐHV 793).

* Người ta thuê đăng báo để tâng bốc mình những tài năng tưởng tượng, để tuyên truyền cho mình những công trạng bịa đặt, để chụp mũ đối phương tội ác dựng đứng. Con cũng muốn làm mờ mắt Thiên Chúa như thế sao? (ÐHV 795).

Một cộng đoàn nữ tu nọ đã sống với nhau rất thành thực, tràn ngập tinh thần hiệp nhất bác ái. Các chị đã bày ra trò chơi "vẽ chân dung" sau đây:

Tất cả nhà đều ngồi trong phòng chơi. Bốc thăm trúng tên chị nào thì chị ấy mới ra khỏi phòng. Trong lúc đó, các chị em còn lại sẽ cùng nhau vẽ chân dung của chị ấy. Mỗi người, với hoàn toàn tự do và bác ái, sẽ nói lên nhận xét của mình về chị và cả nhà cùng đề cử một người phụ trách ghi chú các nét trên bức chân dung:

1- Những đức tính của chị, để nêu gương cho chị em và để cùng chị cảm tạ Chúa cũng như khuyến khích chị tiến lên cao hơn nữa.

2- Những khả năng, những khuynh hướng tốt đẹp mà có thể chính chị cũng không thấy mình có, để khích lệ bản thân chị khám phá ra và phát triển thêm để phục vụ tích cực hơn.

3- Những khuyết điểm, những thiếu sót cần phải biết căn nguyên để trị liệu và quyết tâm nhắc nhủ nhau phấn đấu cải thiện.

Mọi người nhất trí sẽ không thuật lại cho đương sự ai nói điều nọ điều kia vì mục đích của trò chơi là chỉ vì tình bác ái.

Khi đã vẽ xong chân dung thì mời chị ấy vào và đọc cho nghe những nét chính trong chân dung của chị mà chị em đã hợp tác phác họa. Mỗi người vui vẻ nhận bức chân dung của mình và hợp tác vẽ chân dung của người khác.

Mỗi lần chỉ vẽ chân dung một số ít.

Phải có tình bác ái huynh đệ chân thành và lòng khiêm nhượng đơn sơ mới chơi trò chơi này được. Nó vừa có mục đích giải trí, vừa giúp đỡ cộng đoàn cũng như mỗi tâm hồn thiện chí tiến lên mãi.

9. Bác ái để xây dựng cộng đồng quốc tế

* Bác ái là trở thành một cộng đồng làm phát sinh những mối tương quan mới. Có tương quan mới, sẽ có thế giới mới (ÐHV 799).

* Bác ái không phải chỉ có yêu thương và tha thứ; bác ái là cả một hành động để tạo một bầu không khí mới giữa cộng đồng làng xã, cộng đồng quốc gia, cộng đồng quốc tế (ÐHV 800).

* Biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa (ÐHV 801).

* Không ghét ai chưa đủ, thương người chưa đủ, giúp người chưa đủ. Hiệp nhất trong tình yêu và hành động mới đủ. Chúa Giêsu cầu xin: "Xin Cha cho chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (ÐHV 802).

Ngày 4.10.1965, Ðức Phaolô VI đã đọc một bài diễn văn quan trọng tại Ðại Hội Liên Hiệp Quốc. Tiếng nói của ngài dĩ nhiên chẳng mặc một màu sắc chính trị, nhưng chỉ là âm thanh vang vọng của sứ điệp Tin Mừng. Ngài nhấn mạnh rõ ràng:

"Thực ra chúng tôi không có gì cần thỉnh cầu, không một vấn đề nào nêu ra cả; tuy nhiên, cũng có một ước muốn cần bày tỏ, là xin phép quí vị cho chúng tôi trong phạm vi và khả năng riêng, phục vụ với lòng vị tha, khiêm tốn và bác ái.

".. Chúng tôi ý thức rằng chúng tôi đang nói lên tiếng nói của những người đã khuất cũng như của những người đang sống: tiếng nói của những người đã khuất, đã ngã xuống trong những trận giặc khủng khiếp vừa qua, ngã xuống trong niềm ước mơ một sự đồng tâm và hoà bình trên thế giới; tiếng nói của những người đang sống sót, dâng lên tự đáy lòng lên án những kẻ nào mưu toan lại cảnh chiến tranh; tiếng nói của những thế hệ trẻ hôm nay đang vững lòng tiến bước trong niềm ước mong chính đáng một nhân loại tốt đẹp hơn nữa.

"Chúng tôi cũng nói lên tiếng nói của những người nghèo khổ, cùng khốn, xấu số của những người khát vọng công bình, nhân phẩm, khát vọng tự do, cuộc sống khá giả và khát vọng tiến bộ. Các dân tộc hướng về Liên Hiệp Quốc như về một hy vọng sau hết hướng tới sự đồng tâm nhất trí và hoà bình.

"Ở đây không phải chỉ hoạt động để giàn xếp những tranh chấp bất bình, nhưng còn để các quốc gia có thể giúp đỡ nhau cách hữu hiệu.

"Chúng ta phải tập quan niệm về con người một cách mới mẻ, quan niệm về cuộc sống chung giữa con người một cách mới mẻ, và sau cùng quan niệm về những nẻo đường lịch sử và những vận mệnh của thế giới một cách mới mẻ..."

Với cử chỉ và lời nói khiêm tốn mà quả cảm ấy, Ðức Phaolô VI muốn dạy chúng ta biết rằng biên cương của đức bác ái không chỉ giới hạn giữa người với người, mà còn dùng để xây dựng một xã hội mới, điều mà người Kitô hữu thường không đánh giá là quan trọng!

10. Mấy nguyên tắc đơn sơ để sống bác ái

* Phàn nàn là một bệnh dịch hay lây, triệu chứng: bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa (ÐHV 739).

* Ðặt mình vào địa vị kẻ khác, con sẽ thấy những lời tuyên bố long trọng và vô trách nhiệm của con hớ hênh quá, và con sẽ dè dặt dần dần (ÐHV 761).

Vị linh mục kiêm văn hào E. Loutil với biệt hiệu Pierre l'Ermite đã viết nhiều bài báo và tác phẩm nổi tiếng, ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng Pháp, nhất là giới trẻ.

Ngài đã nêu lên một ít nguyên tắc đơn sơ, nhưng có hiệu quả lớn lao nếu chịu khó thực hiện:

1- Chấp nhận nhau.
2- Không xét đoán ai.
3- Không chỉ trích ai.
4- Không bè phái.
5- Nghĩ tốt về kẻ khác.
6- Nói tốt về kẻ khác.
7- Sửa lỗi cho nhau.
8- Cùng nhau suy nghĩ.
9- Luôn luôn tha thứ.
10- Cùng nhau hành động.
11- Liên đới trách nhiệm.
12- Cùng nhau giải trí.
13- Cùng nhau cầu nguyện.

Ngài đã sống rất thọ, và trong cuốn sách "Nhìn lại đời tôi (Je regarde ma vie), ngài có tường thuật: "Tôi đã làm linh mục trên 50 năm, làm chánh xứ, cả đời có 47 cha phó cả thảy. Trừ một cha, còn tất cả đều giảng hay. Mặc dù khác tính, khác sở thích, khác chính kiến, khác tuổi tác, chúng tôi vẫn thông cảm với nhau, vẫn hợp tác chặt chẽ thân tình và yêu thương nhau. Nên nay nếu Chúa cho tôi chọn lại thì:

Thứ nhất: Tôi chọn làm cha xứ.
Thứ hai: Tôi chọn làm cha xứ.
Thứ ba: Tôi chọn làm cha xứ.

Chúng tôi đã tìm thấy hạnh phúc trong đời linh mục do tình huynh đệ thắm thiết có mặt giữa chúng tôi".

(Còn tiếp)

Tác giả: PX Nguyễn Văn Thuận

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin cũ hơn

Facebook Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Kênh Youtube Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập731
  • Máy chủ tìm kiếm3
  • Khách viếng thăm728
  • Hôm nay220,830
  • Tháng hiện tại2,618,830
  • Tổng lượt truy cập86,361,235
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây