Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng. ĐHY PX Nguyễn Văn Thuận [5]

Thứ ba - 06/05/2025 19:38
Này, người lữ khách hôm nay thân mến! Nơi đây không cống hiến cho con những lời khuyên lơn răn bảo, cũng không thay con suy ngắm. Nhưng đây chỉ là những kinh nghiệm sống của các bậc Thánh và các người Thánh, "Những người lữ hành trên đường hy vọng". Họ có thật và họ sống thật!
 
12- Hội Thánh

1. "Vì Hội Thánh, vì Hội Thánh!"

* Mỗi khi có ai tỏ ý lo sợ Ngài đau khổ, nhọc mệt, Ðức Phaolô VI luôn luôn trả lời: "Vì Hội Thánh! Vì Hội Thánh!" Con hãy sống và trả lời như vậy (ÐHV 247).

* Phân biệt vấn đề thần học lịch sử và vấn đề khả năng; Ðức Giáo Hoàng không buộc phải là người có nhiều khả năng hơn cả, nhưng bất cứ ai là người Chúa chọn và trao quyền thì con vâng phục vì Chúa "giao chìa khóa Nước Trời" cho người ấy (ÐHV 255).

* Con hãy sẵn sàng hy sinh cho Hội Thánh và hy sinh do Hội Thánh (ÐHV 265).

Trong một bữa cơm thân mật, có người hỏi Ðức Ông Polgallo:

- Ðức Ông là người thân cận Ðức Thánh Cha, vậy có điều gì nơi Ðức Thánh Cha đánh động Ðức Ông hơn cả?

- Dĩ nhiên Ðức Thánh Cha Phaolô VI là một vị Giáo Hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm cho tôi cảm kích hơn cả nơi ngài là lòng ngài muốn hy sinh vì yêu Hội Thánh. Mỗi khi hòa mình vào đám đông ở Bombay, ở Manilla chẳng hạn, hầu như ngài quên tất cả. Ngài để cho mọi người lôi kéo. Chúng tôi những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ ngài, phải lắm phen cực nhọc... Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với ngài: "Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con thấy Ðức Thánh Cha vất vả quá, với muôn ngàn lo âu, thức khuya dậy sớm, lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Ðức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi kéo mình như thế, chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Ðức Thánh Cha giữ gìn sức khỏe cho". Nhưng mỗi lần như thế, ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng: "Tất cả vì Hội Thánh! Vì Hội Thánh!" Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của ngài, chúng tôi phải vươn lên theo ngài, không thể bỏ ngài, và cảm phục kính mến ngài hơn!

2. Hội Thánh của Chúa

* Nhiều người chê cách tổ chức của giáo triều La Mã. Tôi đồng ý rằng giáo triều La Mã không trọn lành, nhưng tôi xin họ xem thử chính nước họ có hoàn hảo hơn không? Hơn thế, còn phải phân biệt, giáo triều là một cơ quan, không phải là Hội Thánh (ÐHV 252).

* Yêu mến Hội Thánh, vâng lời Hội Thánh, trung thành với Hội Thánh, cầu nguyện cho Hội Thánh (ÐHV 253).

* Có người hễ nghe nói đến Hội Thánh là chỉ trích giáo triều ù lì, nhà thờ tốn tiền, nghi thức rườm rà... Hội Thánh đâu phải giáo triều, nhà thờ, nghi thức, hiểu như thế là sai lạc quá! Hội Thánh là toàn thể dân Chúa đang tiến về Nước Trời (ÐHV 254).

Từ ngày thành lập đến nay, Hội Thánh hầu như liên lỉ gặp những thử thách bên trong cũng như bên ngoài.

Thử thách bên trong: hết lạc thuyết này đến lạc thuyết khác nổi lên, hết ly giáo này đến ly giáo nọ xuất hiện:

- Ariô: Năm 321, linh mục Ariô giảng dạy rằng: Chúa Kitô chỉ có một Bản tính, là Bản tính loài người thôi. Quả là sai lạc! Vì thế, năm 325, Công đồng Nicêa đã được triệu tập và công bố một bản tuyên xưng đức tin khẳng định rằng: "Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, đồng Bản tính (consubstantialis) với Ðức Chúa Cha".

- Nestôriô: là Thượng phụ Giáo chủ thành Constantinôpôli, Nestôriô chủ trương rằng: Ðức Giêsu Kitô có hai Ngôi vị là Ngôi vị Thiên Chúa và Ngôi vị loài người, nên Ðức Maria chỉ là mẹ của một con người chứ chẳng phải là Mẹ của Thiên Chúa. Vì thế năm 431, một Công đồng chung nhóm họp ở Êphêsô đã cất chức Nestôriô, kết án mười hai luận đề của ông và khẳng định: Maria là Mẹ của Thiên Chúa (Thêotokos). Ðến ngày 22 tháng 6 năm đó, kinh "Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội" ra đời. Công đồng Êphêsô còn khẳng định thêm: Chúa Kitô chỉ có một Ngôi vị và hai Bản tính.

- Otykô: Chưa hết, một Ðan viện phụ ở Constantinôpôli, đối thủ của Nestôriô, lại đi quá trớn mà quả quyết rằng: Ngôi Lời kết hợp chặt chẽ với nhân tính đến nỗi chỉ còn một bản tính duy nhất là Thiên tính thôi, khiến Công đồng Calcêđônia, năm 451, phải tái khẳng định: Chúa Kitô có hai Bản tính.

- Phêcius: Nhưng từ đời Thượng phụ Phêcius (891), do nhiều nguyên nhân tâm lý, địa dư, chính trị, não trạng, Giáo Hội Ðông và Tây phương đã dần dần tách xa nhau và đến thời Thượng phụ Micae Xêrulariô (1054) thì ly khai nhau hẳn; tất cả các giáo đoàn thuộc nghi thức Hy-lạp đều theo họ, lập ra Chính Thống giáo. Ly giáo này không nhận quyền tối thượng thẩm và ơn bất khả ngộ của Ðức Giáo Hoàng Roma.

Ðến thế kỷ XIV, XV ở bên Tây phương, các vua chúa lại nhúng tay vào nội bộ của Hội Thánh. Lúc nào họ cũng tìm cách đặt con cháu mình vào chức vụ Giám mục hoặc Ðan viện phụ để vây cánh thêm mạnh mẽ và nhất là để hưởng bổng lộc của nhà Dòng, nhà Chung. Phần đông các Giám mục và Ðan viện phụ ấy chỉ sinh hoạt ở triều đình, mỗi năm về địa phận hay đan viện vài lần để thu hoạch hoa lợi. Do đó đời sống tu trì sinh ra nguội lạnh, sút kém; hàng giáo sĩ thì không được đào luyện cho đủ khả năng đạo đức.

Các vua chúa còn dùng cả ảnh hưởng của mình để tranh ngôi Giáo Hoàng nữa. Có những thời kỳ vô cùng đen tối: Trong Hội Thánh có hai Giáo Hoàng, không biết ai giả ai thiệt (thế kỷ 14, 15). Hay mấy chục năm liền, các Giáo Hoàng về ở tại Avignon, phải bỏ thành Roma hoang vắng, lạnh lẽo. Giáo sử gọi thời kỳ này là "thế kỷ sắt".

Sang thế kỷ XVI, Hội Thánh lại gặp một cơn khủng hoảng về Ðức tin rất trầm trọng. Nhiều nơi chủ trương theo Giáo Hội Tin lành, không thông hiệp hoặc cấm thông hiệp với Ðức Giáo Hoàng, như các giáo phái:

- Luthêrô (1483-1546): ông là thầy Dòng Augustinô, người Ðức, tính tình hung bạo cứng cổ, nhưng rất thông minh, làm giáo sư luân lý và Kinh Thánh. Vốn sẵn tính bi quan lại bị lương tâm bối rối hành hạ, Luthêrô đưa ra lạc thuyết: Bản tính loài người sau nguyên tội đã ra bại hoại nên mọi hành động đều xấu xa tội lỗi. Muốn được cứu rỗi, chỉ cần tin vào công nghiệp của Ðức Giêsu Kitô, còn mọi cố gắng để lánh tội và tập nhân đức đều vô ích. Nên năm 1521, Ðức Lêô X đã ban hành Tông hiến "Decet Romanum Pontificem" kết án và tuyệt thông Luthêrô.

- Zwingli (1484-1531): Ðồng thời với Luthêrô ở Ðức, Ulrich Zwingli người Thụy sĩ xây dựng lạc thuyết của mình dựa trên quan niệm: ý muốn của Thiên Chúa chỉ được biểu hiện trong Thánh Kinh. Ông từ chối Thánh truyền và các luật lệ của Hội Thánh, khởi xướng lý thuyết Giáo Hội Quốc gia Dân chủ.

- Calvinô (1509-1564): Calvinô cũng chủ trương con người hoàn toàn xấu xa và chỉ chấp nhận hai Bí tích: Rửa tội và Bí tích Thánh Thể. Suốt mười mấy năm liền, ông tổ chức Giáo hội Tin lành ở Thụy sĩ và sau đó đã lan truyền sang các nước Ðức, Thụy điển, Ý, Pháp...

- Anh Giáo: Vì say mê cô hầu Anne de Boleyn, Vua Henri VIII nước Anh đã muốn ly dị vợ chính là Catharine xứ Aragon. Ðức Thánh Cha Clêmentê VII không chấp nhận cuộc toan tính ấy. Nổi tức, Henri bèn lập ra Giáo hội quốc gia, phủ nhận quyền của Ðức Giáo Hoàng. Ðến đời vua Edouard VI (1558-1603) thì họ hoàn toàn ly khai Giáo Hội. Năm 1583, Nữ hoàng Êlisabeth tuyên bố chiếu chỉ: "Một tôn giáo duy nhất": Anh giáo được thành lập.

Trong thời kỳ này, có thể nói Hội Thánh phải hứng chịu một "cơn bắt đạo lạnh". Các vua chúa đã có những thái độ khắc nghiệt như:

* Tịch thu nhà thờ và tài sản của Hội Thánh Công giáo mà trao cho Tin lành.

* Giết chết, trục xuất những ai không bỏ Công giáo mà theo Anh giáo, kể cả các vị có chức lớn trong nhà nước như Thánh Thomas More (chưởng ấn), Hồng Y Gioan Fisher.

* Người Công giáo không được giữ một số chức vụ cao cấp như Thủ tướng, tướng lãnh quân đội.

Ðến thế kỷ XIX, XX lại nổi lên những lạc thuyết như: Duy lý, Cải tân với Renau, Loisy... Thời đại hôm nay lại xuất hiện thêm thuyết Tục hóa, những khủng hoảng quyền bính, sự ra đi của nhiều linh mục, tu sĩ.

Nếu là một tổ chức trần thế thì qua bao nhiêu biến cố "tự hủy diệt" như trên, chắc Hội Thánh đã sụp đổ từ lâu rồi. Nhưng cứ mỗi lần có lạc thuyết nỗi lên, Chúa lại cho xuất hiện nhiều người đứng lên bênh vực Hội Thánh: Trong mấy thế kỷ xác định giáo thuyết ban đầu thì có thánh Augustinô (354-430), thánh Basiliô (329-379), thánh Grêgôriô Nazian (325-390), thánh Hilariô (315-369), thánh Athanasiô (295-373)... Những lúc thế quyền vật chất lan tràn vào cung thánh để lũng đoạn thì Thiên Chúa lại sai thánh Ða Minh (1170-1221), thánh Phanxicô Assisiô (1182-1226), thánh Bênađô (1090-1153) nêu gương sống khó nghèo, cầu nguyện để thức tỉnh.

Lúc nhiều bậc vị vọng trong Hội Thánh chỉ đi lại với triều đình vì thuộc dòng dõi của vua chúa, bỏ rơi đám dân nghèo, thì Chúa lại sai thánh Vinh Sơn đệ Phaolô (1581-1660) lập Dòng Bác Ái chăm sóc người cùng khổ, thánh Gioan Lasan (1631-1719) lập Dòng Sư huynh dạy dỗ các trẻ bần dân, và thánh Gioan Thiên Chúa (1495-1550), thánh Camillô Lellis (1550-1614) phục vụ kẻ bệnh hoạn tật nguyền.

Khi phải đương đầu với các thế quyền áp đặt đạo Tin lành ở nhiều nước Âu châu Thiên Chúa lại sai thánh Phêrô Canisiô (1521-1597), thánh Phanxicô Salêsiô (1567-1622), thánh Ignatiô Loyola (1493-1556) lập Dòng Tên để chống đỡ Hội Thánh.

Năm 1545, Ðức Thánh Cha Phaolô III đã triệu tập Công đồng Triđentinô để xác định rõ những điểm giáo lý bên Tin lành đã phủ nhận, tổ chức lại đời sống tu trì và việc huấn luyện linh mục trong các chủng viện. Thêm vào đó, thánh Vinh Sơn đệ Phaolô lập Dòng Lazariste, cha Olier lập Hội Xuân Bích, thánh Carôlô Borrômêô (1538-1584) lập Dòng Thánh Ambrôsiô... Tất cả đều nhằm mục đích đào tạo hàng giáo sĩ, thực thi những điểm Công đồng Triđentinô đã quyết định.

Trước những khủng hoảng của thế kỷ XIX và XX này, các Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X, Piô XI, Piô XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô II đã can đảm sáng suốt vạch rõ những điểm sai lạc, đồng thời nỗ lực canh tân Hội Thánh. Công cuộc sáng chói nhất của các ngài là Công đồng Vatican II mà mỗi người chúng ta đang thụ hưởng những thành quả tốt đẹp như:

* Canh tân đời sống Hội Thánh đối nội cũng như đối ngoại,
* Tiến tới hiệp nhất với các anh em lạc giáo và ly khai,
* Ðối thoại với anh em ngoài Công giáo, anh em vô thần.

Nói tóm, sau mỗi lần khủng hoảng, Hội Thánh lại được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn để tiến tới trên con đường canh tân ngày càng tốt đẹp, tươi trẻ và hùng mạnh hơn. (ÐHV 252, 253, 254).

Thử thách bên ngoài:

* Ðừng ngạc nhiên khi người ta phá Hội Thánh, vì đó là nhiệm thể Chúa Kitô; họ tiếp tục giết Chúa Kitô; không giết Chúa Kitô được nữa, người ta phá Hội Thánh. (ÐHV 251).

* Con tin Hội Thánh vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh (ÐHV 268).

- Mới vừa giảng đạo được ba năm, chính Chúa Giêsu, Ðấng sáng lập Hội Thánh, phải bị án chết một cách nhuốc nha tất tưởi. Bấy giờ, các thủ lãnh Do Thái tưởng rằng đạo Công giáo đã bị chôn vùi làm một với Chúa.

- Tiến đến, Hội Thánh mới bành trướng đã phải trải qua 300 năm bách hại khắp đế quốc Roma: Các Tông đồ đều chịu tử đạo, tất cả các Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô đều phải đổ máu mình để minh chứng đức tin. Mãi cho đến năm 313, sắc chỉ Milan về tự do tín ngưỡng mới được ban hành. Ba trăm năm dài đẫm máu ấy đã để lại cho lịch sử và các Kitô hữu một bài học như sau: càng chém giết, càng bắt bớ, thì người ta càng làm đạo Chúa lan rộng mãi, như lời Tertullianô nói "Máu các Thánh Tử Ðạo là hạt giống trổ sinh con nhà có đạo".

- Ðến thế kỷ VI và VII, làn sóng các dân Man-di lại tràn ngập đế quốc Roma, gây không biết bao điêu đứng, khó khăn cho Hội Thánh. Gót chân của các bô lão Goth, Wisigoth, Normands, Germains, Vandales, Huns... đi đến đâu là gây sụp đổ tiêu tan đến đó. Nhưng với sự kiên trì dạy dỗ, Hội Thánh đã cảm hoá được, lôi kéo họ trở về.

- Khi hầu hết các quốc gia Âu châu đã trở lại đạo Công giáo, ai cũng tưởng rằng, Giáo Hội sẽ là một gia đình hòa thuận tốt đẹp, nhưng các vua chúa lại muốn xen vào nội bộ của Hội Thánh để tranh giành ảnh hưởng. Họ tìm cách đề cử những Giám mục, Hồng Y, Ðan viện phụ có khuynh hướng theo mình để thu phục nhân tâm, tăng cường uy thế, thụ hưởng bổng lộc. Khiến các Giáo Hoàng phải liên tiếp kiên cường bảo vệ sự tự do của Hội Thánh khỏi những tranh chấp vật chất và trần thế ấy. Lịch sử còn ghi lại những vụ Fréđêric, Barberousse ở Ðức, Philippe le Bet ở Pháp chống đối và dùng vũ lực đối với Ðức Giáo Hoàng nhưng đã không thể làm cho ngài nhượng bộ.

- Ðến thời Cách mạng Pháp (1789-1799), không biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển Thái Bình Dương. Nhưng Hội Thánh không vì thế mà sụp đổ. Ðến khi Napolêon lên ngôi, ông lại sang Ý bắt luôn cả Ðức Giáo Hoàng Piô VII đem về cầm tù tại Fontainebleau, vì ngài đã phản đối việc ông ly dị Josephine để cưới Marie-Louise làm vợ. Một hôm vì quá tức giận, Napolêon đã nói thẳng với Hồng Y Consalvi, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh: "Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh". Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời: "Thưa ngài, chính chúng tôi đây là kẻ ở bên trong Hội Thánh, mà dù với bao gương xấu, tội lỗi, chia sẻ khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh, suốt 19 thế kỷ qua thì sức mấy mà ngài phá tan Hội Thánh được!" Về sau, Napolêon đã phải tuyên bố: "Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại!"

- Ðến năm 1820, Cách mạng Tây ban Nha lại giải tán nhiều dòng tu, giết chết khoảng 35.000 linh mục; nhiều vị bị họ vất xuống đất cho xe chạy qua; số Tòa Giám mục rút xuống còn 6.

- Trong trận thế chiến thứ hai, Phátxít Ðức cũng giết chết rất nhiều linh mục, tu sĩ. Tất cả đều bị họ tống vào các trại tập trung hoặc đốt trong lò thiêu xác.

- Rồi mới cách đây khoảng 20 năm đế quốc xã hội Trung Hoa, với chủ trương bá quyền bành trướng của Mao Trạch Ðông, lại góp tất cả các Giám mục Trung quốc giam vào các trại tập trung ở miền Bắc, khiến giờ đây có trên 120 địa phận vắng bóng Giám mục. Thật là tàn ác, vi phạm lộ liễu nhân quyền. Chính họ đã đặt ra 45 giám mục cho Hội Thánh tự trị mà không có sự chấp thuận của Tòa Thánh. Thế nhưng, chỉ một năm sau cả 45 ông giám mục này, vì không được nhân dân tín nhiệm, nên đã biến mất vào các trại tập trung.

Tóm lại, mặc dù phong ba bão táp không ngừng đánh vào thuyền của thánh Phêrô, thuyền Phêrô suốt 20 thế kỷ vẫn không bị chìm ngập. Giờ đây Nêron đã yên nghỉ dưới nấm mồ; Philippe le Bel, Frédéric Barberousse, Napolêon, Bismark, Mao Trạch Ðông, Hitler đang chu du nơi đâu, trong lúc Hội Thánh vẫn muôn đời đứng vững và luôn luôn nghe vang vảng bên tai câu nói của Thầy mình: "Này Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20).

3. Con đã đọc chưa?

* Sống đạo không phải chỉ để được cứu rỗi; sống đạo không phải chỉ để giải thoát con người. Sống đạo là hiệp nhất với toàn thể dân Chúa trên khắp thế giới, hiệp nhất với Ðầu là Ðức Kitô, và đại diện của Ngài là Ðức Thánh Cha, để tiếp tục sự chết và sự Phục Sinh giải phóng nhân loại. Ngoài sự thông hiệp ấy, như cành nho đã lìa cây, chỉ còn là "công giáo" trong "hồ sơ lý lịch" (ÐHV 256).

* Con công kích cơ cấu, tại sao chính con lại khư khư đòi tổ chức kiểu này, xếp đặt người nọ, lập các ủy ban, tiểu ban, văn phòng! Con giống nhóm tuyên bố: "Ðời nay có bệnh viết tắt như ONU, UNESCO v.v... Chúng tôi cực lực phản đối, và lập hội "Chống viết tắt" tên là ASS (Association sans single). Mâu thuẫn! (ÐHV 260).

- Hằng tuần trong buổi triều yết chung vào ngày thứ tư Ðức Thánh Cha đều có giảng giải cho giáo hữu một bài hàm chứa nhiều điểm liên quan đến họ hoặc đến tinh thần của Hội Thánh, của thế giới. Con có khi nào đọc một trong số những bài giảng ấy chưa?

- Công đồng Vatican II đã bế mạc vào ngày 8-12-1965. Và các Ðức Thánh Cha đều nói: "Chương trình chính của triều đại chúng tôi thực hiện Công đồng". Con đã đọc được mấy Sắc lệnh? Suy ngắm được mấy Hiến chế? Tìm hiểu được mấy Sứ điệp? Học hỏi được mấy Tuyên ngôn của Công đồng Vatican II? Công đồng Vatican II có ảnh hưởng gì đến đời sống của con không? Nếu chính bản thân con mà chưa rõ Công đồng Vatican II thì làm sao các giáo dân tầm thường có thể biến đổi để canh tân theo chương trình của Hội Thánh mà Ðức Gioan XXIII đã gọi là: "Một cuộc Hiện xuống mới" được? Tinh thần con ở ngoài Hội Thánh mà con không hay biết! Thực nguy hiểm!

- Thông điệp "Hòa bình trên thế giới" của Ðức Gioan XXIII đã được Hồng Y Suenen mang qua Liên Sô và được Quốc hội Liên Sô tiếp đón đầy thiện cảm, con đã đọc chưa? Một Hồng Y khác cũng mang Thông điệp ấy sang Liên Hiệp Quốc và được Liên Hiệp Quốc kính cẩn đón chào, thế mà con xem được mấy chữ? Con không đọc trong lúc những kẻ ngoài Công giáo và Vô thần lại nghiên cứu từ lâu và còn tặng giải thưởng Pulitzer cho tác giả thông điệp đó!

4. Chứng nhân của Hội Thánh

* Có thứ công giáo vụ lợi, có thứ công giáo lý lịch, có thứ công giáo xu thời, có thứ công giáo danh dự. Chúa chỉ chấp nhận hạng "công giáo trăm phần trăm", "công giáo vô điều kiện", "họ đã bỏ mọi sự và theo Người" (ÐHV 261).

* Trong Hội Thánh mọi người được mời gọi và có bổn phận nên thánh. Nếu con không sống thánh thiện, con đừng lên mặt canh tân Hội Thánh. "Không ai có Thánh Thần mà chống lại Ðức Kitô" (ÐHV 267).

* Hội Thánh của giới trẻ, Hội Thánh của giới già, Hội Thánh của trí thức, Hội Thánh của lao động, Hội Thánh của người nghèo, Hội Thánh của người giàu, Hội Thánh của da vàng, Hội Thánh của da đen, Hội Thánh của phụ nữ, Hội Thánh của nam giới, Hội Thánh của tất cả, Hội Thánh chấp thuận tất cả, Hội Thánh không kỳ thị ai. Kỳ thị và chia rẽ không có chỗ trong Hội Thánh (ÐHV 270).

Ngày nay không ai lại không biết Mẹ Têrêxa thành Calcutta, một nữ tu Bác Ái chuyên việc tông đồ bằng cách phục vụ những kẻ mắc bệnh cùi, ốm đau, cùng khổ, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm la liệt trên các hè phố tại Calcutta Ấn Ðộ.

Trước đây, có lần một vị sư Phật giáo nói với Mẹ: "Tôi biết và yêu mến Ðức Kitô lắm, nhưng tôi ghét Hội Thánh của ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội Thánh của Ðức Kitô"

Sau một năm có dịp cùng làm việc với Mẹ Têrêxa, vị sư đó phát biểu: "Tôi đã quan sát chị. Bây giờ tôi thực sự tin rằng các chị làm việc chỉ cốt để giúp những người nghèo khổ, xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí!"

Nhờ các cuộc hoạt động từ thiện, bác ái, Mẹ Têrêxa đã nhận được nhiều giải thưởng của chính phủ Ấn Ðộ, chẳng hạn như giải "Padna Shri" (Hoa huệ tuyệt vời) năm 1963. Cùng năm đó, chính phủ Philippine tặng Mẹ giải thưởng Magsaysay (giải thưởng dành cho vùng Ðông Nam Á về các công cuộc xã hội). Năm 1971, Mẹ lại được vinh dự lãnh giải thưởng "Hòa bình Gioan XXIII" do chính tay Ðức Phaolô VI trao tặng tại Roma. Gần đây nhất, tháng 10 năm 1979, Mẹ Têrêxa lại được hân hạnh nhận giải thưởng Nobel Hòa bình 1979 là giải thưởng lớn nhất và tiếng tăm nhất thế giới.

Thế nhưng, giải thưởng làm Mẹ Têrêxa thích thú và hãnh diện nhất chính là đưa được nhiều người về với Hội Thánh Công giáo và làm cho nhiều người khác yêu mến Hội Thánh của Ðức Kitô hơn.

5. Bức tranh của giáo dân Ðức thời Bismark

* "Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi!" Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng "Hội Thánh Chúa" không phải hội của loài người. (ÐHV 249).

"Thủ tướng sắt", người đó là ai vậy?

Là Thủ tướng Bismark, một nhà độc tài đã thao túng chính trường Ðức quốc thế kỷ vừa qua. Ông đã gây nhiều khó khăn cho Giáo Hội, vì Giáo Hội phản đối đường lối độc tài Phátxít của ông.

Trong những tháng ngày đen tối ấy, giáo dân Ðức đã có sáng kiến in ra một bức hí họa, nhà nào cũng treo, các tiệm hàng thì dán trước cửa kính. Bức hí hoạ ấy trình bày một tên khổng lồ đang hì hục toát mồ hôi để xô một tảng đá xuống biển; bên cạnh đó, một thằng quỷ Satan nhìn nhe răng cười nham nhở và bảo tên khổng lồ kia: "Tao đã nhọc mệt suốt 20 thế kỷ mà vẫn chưa làm được, mày là ai mà dám cả gan làm?"

Bismark biết được ý nghĩa của bức hí họa thì vô cùng tức tối, nhưng chẳng biết làm sao! Cuối cùng, "đấu tranh văn hóa, Kulturkampi" nhằm chống tôn giáo của ông thất bại, và ông cũng đã nằm xuống như bao nhà độc tài khác trong đắng cay và thất sủng đối với hoàng đế Guillaume. Hai người thù hận nhau đến nỗi trước khi chết, Bismark đã trối với gia đình phải liệm xác ông gấp, kẻo ông phải giáp mặt hoàng đế Guillaume đến... phúng điếu!

6. Hội Thánh là tôi

* Không ai phá Hội Thánh vì yêu Hội Thánh (ÐHV 248).

* Hội Thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội Thánh có lời hứa của Chúa. Hội Thánh là một phép lạ liên lỉ. Tuy nhiên đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Cũng đừng vì đó mà tha hồ làm gương xấu, để Chúa làm phép lạ mỗi ngày (ÐHV 264).

Nữ tu đời Ange Hattei, trong tác phẩm "Jesus caritas", có thuật lại câu chuyện như sau: "Trước Công đồng Vatican II, một hôm có người bạn vô thần tôi yêu mến đã nhận định với tôi rằng, Hội Thánh là một thế lực tiền bạc, là điểm tựa của các nhà độc tài và đại tư bản". Ông ta thắc mắc về các vị lãnh đạo Hội Thánh độc đoán và phe phái, về các tín hữu tự cho mình là tốt mà hành động xấu xa, về các linh mục lo lắng thụ hưởng và làm giàu... Tôi kiên nhẫn lắng nghe ông rồi nói: "Tôi đã làm gì anh mà anh hạ nhục tôi như vậy?" Ông ta sững sồ bảo: "Tôi xỉ nhục cô ư? Nhưng tôi đâu có nói gì cô! Không nói gì cô mà cũng chẳng nói gì về một người bạn của cô cả, như linh mục X... hay chị Y... chẳng hạn. Tôi nói đến Hội Thánh cách chung mà!" Tôi trả lời: "Ðúng thế, Hội Thánh cách chung là tôi, Hội Thánh cách chung là tất cả những kẻ mà anh chỉ trích, những kẻ mà anh loại trừ; họ trộn lẫn với nhau một cách không thể phân ly được. Hội Thánh cách chung là họ, là tôi, là tất cả những người ấy!". Ông bạn từ đó không bao giờ còn thắc mắc với tôi về Hội Thánh. Và nhiều lần trước mặt tôi, ông còn tìm cách làm nổi bật những dấu hiệu tích cực về sự hiện diện của Hội Thánh trong thế giới này nữa.
 
-----o0o-----

13- Ðức Tin

1. Ðức tin Tiên Tổ

Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1533, Phúc Âm của Chúa đến Việt Nam cùng với Thánh giá Chúa. Biết bao tín hữu Chúa bị lưu đày, bị chiếm đoạt tài sản, lẩn lút sống trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ để trung thành với Ðức tin. Cho đến cuối thế kỷ XIX, ta có thể tính được trên 130.000 đấng thuộc mọi thành phần đã được diễm phúc Tử Ðạo. Trong số đó có 117 vị đã được các Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Ðức Piô XII phong lên bậc Chân phước. Và ngày 19.6.1988 Ðức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã tôn phong các ngài lên bậc Hiển Thánh. Chúng ta có thể chia ra như sau:

* Ðời Trịnh Doanh 2 vị
* Ðời Trịnh Sâm 2 vị
* Ðời Cảnh Thịnh 2 vị
* Ðời Minh Mạng 57 vị
* Ðời Thiệu Trị 3 vị
* Ðời Tự Ðức 51 vị.

Thành phần các Thánh ấy:

* 8 Giám mục
* 50 Linh mục
* 16 Thầy giảng
* 1 Chủng sinh
* 42 Giáo dân.

Giáo Hội Việt Nam ta nghèo nàn không sánh được với các Giáo Hội ở Âu Mỹ, nhưng chúng ta cũng hãnh diện về lòng trung thành sắt son với Ðạo Chúa của Tổ tiên ta: Ba thế kỷ bắt bớ, tù đày và trên 130.000 Ðấng Tử Ðạo.

2. Trong bóng tối giáo đường

* Nhiều người nói: "Tôi có đức tin, tôi còn đức tin." Có lẽ "đức tin của giấy khai sinh" không phải đức tin của đời sống; ít người sống theo đức tin (ÐHV 274).

* Con đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái và trung thành (ÐHV 280).

* Thành thực cầu xin như các Tông Ðồ: "Xin Thầy thêm sức mạnh cho đức tin chúng con." (ÐHV 282).

Vào những buổi chiều tà nhà thờ vắng vẻ, thánh Phanxicô Salêsiô thường đến trước Chúa Giêsu Thánh Thể sốt sắng cầu nguyện.

Một hôm đang lúc mãi mê cầu nguyện thì ngài nghe tiếng sột soạt trong bóng tối. Tưởng là kẻ trộm, ngài vụt đứng dậy cất tiếng hỏi: "Ai?". Một bóng lạ mặt tiến đến gần ngài và nói: "Thưa Ðức Giám mục, con không có đạo, con nghe Ðức Giám mục giảng về Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng con không tin. Vì thế hôm nay, thừa lúc chiều tối, con lẻn vào nhà thờ, rình xem thử Ðức Giám mục viếng Mình Thánh Chúa như thế nào? Con thú thực: con đã thấy rõ đức tin của Ðức Giám mục. Giờ đây con vững vàng tin..."

3. Ba câu hỏi của giáo dân Nhật Bản

* Có gì hạnh phúc bằng tin tưởng mình đang ở trong Hội Thánh, ở đó những khắc khoải của tinh thần được giải quyết và quả tim đầy tràn hy vọng (ÐHV 281).

* Không ai bắt con chối Chúa, nhưng có thể bắt con đi ngược lại với đường lối của Chúa, "để giữ đức tin". Thực là mâu thuẫn: Ðức tin của con sẽ chết vì con sợ chết, sợ đau, sợ cực (ÐHV 286).

* Ðối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng; Chúa không phải là Ðấng bắt con phải kính mến, nói đúng hơn, Chúa là Ðấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô hạn (ÐHV 288).

* Chúa của người công giáo cao cả, không phải vì Ngài "toàn năng", nhưng vì Ngài "toàn ái". Ngài siêu việt vì Ngài là "Tình yêu tuyệt đối" (ÐHV 289).

Giáo hội Nhật Bản rất anh dũng. Họ có nhiều vị Tử Ðạo rất oanh liệt, chẳng hạn như thánh Phaolô Miki. Thánh Phaolô Miki và 25 bạn đồng đội đã bị bắt và bị treo trên những cây thập tự giá đối diện với bờ biển trên một chiếc tàu... Tuy phải gia hình đau đớn, Phaolô Miki và các bạn vẫn vui tươi và không ngừng giảng đạo cho những kẻ đến xem. Các ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại, tha thứ cho những ai sỉ nhục và kết án mình. Thái độ khiến nhiều người đến xem điên tiết. Họ lấy giáo đâm chết tu sĩ Miki và các bạn. Hôm ấy là ngày 5.2.1597, ngay giữa một thời kỳ bắt bớ khá gắt gao, nhưng vẫn còn có tính cách địa phương.

Cuộc bắt bớ này, đến năm 1613 thì lan ra khắp mọi nơi và mọi chỗ. Năm đó chiếu chỉ của Daifusanna vừa được ban hành, Giáo Hội Nhật Bản liền rơi vào tình trạng nguy kịch. Dấu hiệu mở màn là cuộc xử tử công khai 50 Ðấng Tử Ðạo ở Nagasaki ngày 22.9.1622. Cuộc bách hại trở nên dã man và ác liệt trên đất Kiu-shu vào những năm 1636-1638 sau khi quân sĩ của Shimbara, một viên tướng Công giáo đứng lên bảo vệ đức tin và sinh mạng, bị đánh tan hoàn toàn: Gần 35.000 người Công giáo bị giết trong cuộc nổi dậy ấy. Các vua Nhật tưởng đã diệt được đạo Công giáo tận gốc rễ. Bên ngoài, các nước cũng nghĩ rằng đức tin của giáo dân Nhật còn quá non yếu, khó đương đầu nổi cơn bắt đạo gắt gao như vậy, nhất là với chính sách bế quan tỏa cảng của các vua Nhật, chính sách cấm các nhà truyền giáo đặt chân lên đất Phù Tang. Thế nhưng thực tế lại khác.

Vì các Kitô hữu không có linh mục, không Thánh lễ, không thánh đường đó đã anh dũng ngoan cường sống đạo tới 200 năm sau, đến khoảng giữa thế kỷ XIX, thời Minh Trị Thiên hoàng, khi các nhà truyền giáo lại được đặt chân lên đất Nhật. Sau đây là một chứng tích hùng hồn cụ thể:

Một hôm, cha Petitjean đi đến giảng đạo tại Nagasaki trước mặt một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ toàn là lương dân nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi: "Có ai thắc mắc gì không?" Một người đưa tay chất vấn:

- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời cho chúng tôi có hay không?

- Tốt lắm, xin quí vị cứ đặt câu hỏi.

- Câu hỏi thứ nhất: Các ông có tin Ðức Mẹ đồng trinh không?

- Có.

- Câu hỏi thứ hai: Các ông có vâng lời và thông hiệp với Ðức Thánh Cha không?

- Có

- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?

- Có

- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi toàn là Công giáo cả!

Cha Petitjean hết sức bàng hoàng, ngạc nhiên, như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm nhau, không cầm được nước mắt vì quá sung sướng cảm động. Nhà truyền giáo hỏi:

- Bấy lâu nay có ai giảng dạy cho anh chị em không?

- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi!

- Vậy thì sao anh chị em còn sống đạo sốt sắng đến thế?

- Thưa Cha, đó là nhờ ông bà Tổ tiên chúng con truyền lại, sau là nhờ chúng con biết âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết yêu thương đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.

- Nhưng tại sao anh chị em lại đặt cho cha ba câu hỏi vừa rồi?

- Thưa cha, vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà đánh giá xem họ có phải là những nhà thừa sai chân chính không. Nay chúng con quá đỗi vui mừng vì các cha đích thực là những người được Hội Thánh sai đến. Chúng con sẽ nghe lời các cha và giữ vững đức tin Tổ tiên chúng con truyền lại.

4. Gương sống đạo của Tổ tiên chúng ta

* Nắm vững đức tin, con phân biệt đâu là đường hy vọng của tâm hồn tông đồ, đâu là lối chết của thế gian (ÐHV 273).

* Các Tông Ðồ đã khiêm tốn thuật lại trong Phúc Âm đức tin yếu hèn của họ, để chúng ta mạnh tin hơn (ÐHV 279).

* Con đừng giả vờ để thoát khó nguy. Con nhớ gương Êlêazarô: "Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên tưởng rằng Êlêazarô đã 90 tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi sự giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi cũng làm cho chính họ lầm lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ô danh cho tuổi già của tôi..." (ÐHV 285).

* Con phải can đảm để sống đức tin hàng ngày, bằng các thánh tử đạo can đảm để giữ đức tin (ÐHV 287).

* Sự cứu rỗi của nhân loại không phải là một "tổ chức", mà là một "mầu nhiệm", mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu chết sống lại (ÐHV 290).

Trên đây cha đã nhắc sơ đến sự hy sinh vì đức tin của ông bà tổ tiên chúng ta, nói đến số lượng và thành phần của các thánh Tử Ðạo. Nay mô tả chi tiết các hình khổ đã dành cho các ngài. Như nào là có những giáo xứ (ở Quảng Trị) bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Nào là cả Nhà Dòng Mến Thánh giá Phan Rang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống đi. Nào là có những thiếu nữ Công giáo non yếu bị đưa về Huế phạt gia hiệu, phơi nắng ngày này sang ngày khác rồi chặt một ngón tay trước khi đánh đập và tha về. Nào là gương 12 vị Chánh trương, trùm trưởng khắp nơi bị đưa về Huế, giam trên thành Lồi (bức thành người Chàm xưa đắp lên để đánh với người Việt Nam, xa thị xã độ 10 cây số). Các ông phải bứt cỏ nuôi voi cho nhà vua cho đến khi chết dần chết mòn tất cả; nay 12 ngôi mộ của các ông vẫn còn nguyên vẹn dưới chân thành ấy.

Và sau đây, cha xin ghi lại vắn tắt gương sống của một vài vị để soi chiếu cho chúng ta:

Những vị có chức vụ trong nhà nước hoặc quân đội như:

- Thánh Micae Hồ Ðình Hy, ngài làm quan Thái bộc tới Hàm tam phẩm và đã chịu trảm quyết thời Tự Ðức tại Huế 22.5.1857.

- Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ. Ðã chịu trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, ngày 23.10.1833, tại Huế, triều vua Minh Mạng.

- Thánh Phanxicó Trần Văn Trung, Cai đội. Ðã chịu trảm quyết tại Huế ngày 6.10.1858, dưới triều Vua Tự Ðức.

- Thánh Giuse Lê Ðăng Thị, cũng là Cai đội. Chịu xử giảo tại Huế, ngày 24.10.1860, dưới triều vua Tự Ðức.

- Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, một lý trưởng gương mẫu liêm khiết. Ngài đã bị xử trảm tại Nam Ðịnh, ngày 12.8.1838.

Các vị này là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với Tổ quốc và nhân dân, nhưng chỉ vì không bỏ đạo mà phải chịu án tử hình.

* Những người giáo dân lãnh trách nhiệm tông đồ trong hội đồng giáo xứ như:

- Thánh Giuse Nguyễn Vân Lưu trùm họ Mạc Bắc. Ngài đã giúp đỡ và giấu ẩn cha Thánh Philipphê Minh trong nhà nên bị bắt, giải về Vĩnh Long. Vì già yếu và với lại chịu lắm khổ hình, ngài đã chết rũ tù ngày 2.5.1854.

- Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, trùm xứ và thầy thuốc. Ngài đã bị giam cùng với Ðức cha Cao, Cha Ðiểm, Cha Khoa, thầy Phêrô Từ và đã chịu tử hình ngày 10.7.1840, tại Ðồng Hới.

- Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, trùm cả Bình Ðịnh, một trợ tá đắc lực của Ðức Cha và hàng giáo sĩ. Ngài đã bị bắt và phát lưu vào Mỹ Tho, nhưng vì quá gian khổ nên đã từ trần lúc vừa đến Mỹ Tho ngày 15.7.1855.

- Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu Phủ Họ Ðầu Nước, tỉnh An Giang, rất nhiệt thành và quí mến hàng linh mục. Ngài đã bị bắt cùng với Cha Ðoàn Công Quý và hy sinh vì Chúa tại Châu Ðốc, ngày 31.7.1859.

- Thánh Antôn Nguyễn Ðích, thường gọi là ông trùm Ðích, ngài rất đạo đức, yêu người nghèo và tận tụy giúp đỡ hàng giáo sĩ. Ngài đã bị bắt cùng với con rể là Thánh Micae Lê Mỹ, vì cho linh mục Thánh Giacôbê Mai Năm trú ngụ tại nhà. Cả ba đã trung kiên đến cùng và đã xử trảm tại Nam Ðịnh ngày 12.8.1838.

- Thánh Mathêu Nguyễn Văn Phượng, một người nổi tiếng đạo đức thông minh, được bầu làm trùm họ Sáo Bùn, Quảng Bình. Ngài bị bắt vì tội chứa chấp cha Thánh Gioan Hoan và oa trữ đồ lễ cùng sách vở Công giáo. Ngài đã bị xử trảm ngày 26.5.1861, tại Ðồng Hới cùng với cha Hoan.

* Những phụ nữ Công giáo Việt Nam đã anh dũng tuyên xưng đức tin như:

- Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ Công giáo gương mẫu. Vì sốt sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo nên bà đã bị bắt và vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy thương tích, lại không ăn uống được, nên kiệt sức và chết rũ tù ngày 12.7.1841.

* Những anh hùng vô danh mà từ Nam chí Bắc, ai đã sống trong những tháng năm đầu thế kỷ 20 này đều có thể gặp. Ðó là các cụ ông, cụ bà trước đây đã bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn rồi bị người ta rạch mặt lấy mực tàu xâm lên trên má hai chữ "Tả đạo" để dù đi đến đâu, nhân dân ai cũng nhận ra đây là những người theo đạo tả; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của đức tin kiên cường sáng chói.

"Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của chúng ta" (Giảng viên 44,1).

5. Tuyên xưng bằng máu

* Hãy có một đức tin sắt đá, con sẽ làm được tất cả, vì mỗi lần Chúa làm phép lạ, Chúa hỏi có tin không. "Ðức tin con làm cho con được lành." (ÐHV 278).

* Chúa toàn năng và hằng hữu, nếu con tin Chúa, con sẽ làm những việc lạ lùng như Chúa Giêsu đã làm, và còn làm những việc vĩ đại hơn nữa. Ngài đã hứa! (ÐHV 284).

Ðức tin là con mắt thần, là sức mạnh vũ bão. Người có đức tin trông thấy những cái kẻ khác không thể trông thấy, làm được những cái kẻ khác không thể làm được.

Khi đứng trước lưỡi gươm trần của tên đao phủ đang đưa lên cao, Thánh Phêrô Veren vẫn hiên ngang tuyên bố: "tôi tin". Khi miệng bị chém không thể nói được nữa, ngài vẫn bình tĩnh lấy ngón tay thấm máu đang chảy ràn rua trên ngực và viết lên mặt đất, nơi ngài sắp gục ngã làm của lễ, hai chữ: Tôi Tin.

Ðúng như lời Thánh Kinh: "Sự chiến thắng của tôi chính là đức tin kiên vững".

6. Ðức tin của anh công nhân

* Xem hành động của con, phản ứng của con, đủ biết đức tin của con sống động hay là "đức tin nhãn hiệu"! (ÐHV 275).

Ông ấy là giám đốc của một xưởng kỹ nghệ chuyên sản xuất nông cụ. Ông ta không tin có Thiên Chúa và cũng chẳng tin vào tinh thần trách nhiệm của các công nhân trong xưởng. Sáng hôm ấy, hơn 1.000 công nhân trong xưởng nghe nói ông giám đốc đã lên đường đi công tác nơi xa, mà sớm lắm cũng một tháng sau mới trở về, nhưng đến tối ông âm thầm về lại xưởng. Sáng ngày hôm sau, ông đứng trên văn phòng ở lầu hai quan sát các công nhân làm việc. Bộ mặt thực của mỗi người đều bị lộ: ai ai cũng lười biếng, nhác nhớn, duy chỉ một anh công nhân lúc nào cũng làm việc tận tụy, hăng say. Tên anh là Shirley, người Công giáo duy nhất của xưởng.

Hôm sau các công nhân nghe rằng, ông giám đốc đã hoãn chuyến đi vì trở ngại kỹ thuật! Riêng Shirley, chàng được gọi lên văn phòng:

- Anh Shirley, tôi hết lòng khen ngợi anh, anh là một công nhân tốt. Tôi không thấy đức tin của anh, nhưng nhìn qua công việc lao động và thái độ sống của anh, tôi cũng hiểu được phần nào...

Mấy tháng sau, các công nhân nghe tin ông giám đốc bắt đầu học giáo lý Công giáo.

7. Thà bị lột da

* Trên đường hy vọng, con cần một địa bàn để chỉ đường cho con trong những lúc tăm tối gian nan nhất, đó là đức tin, địa bàn Hội Thánh trao cho con ngày chịu phép Thánh Tẩy (ÐHV 271).

Ngày kia có người hỏi Fabre, một nhà côn trùng học danh tiếng: "Ông có tin vào Thiên Chúa không?" - Nhà bác học trả lời không chút ngần ngại: "Tôi không thể nói không tin vào Thiên Chúa. Vì không có Người, mọi sự đều tối đen, tôi cũng chẳng hiểu được tí gì. Tôi thà bị lột da còn hơn là để mất niềm tin vào Thiên Chúa ".
 
-----o0o-----

14- Tông Ðồ

1. Hai rương bài gẫm của một vị Tổng Thống

* Giáo dân thời sơ khai diễn tả cách nôm na: Tông đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa Kitô trên mặt, Chúa Kitô trong mệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc, Chúa Kitô trên vai... Tóm tắt, là một người đầy tràn Chúa Kitô và cho kẻ khác Chúa Kitô (ÐHV 292).

* Ðừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung cho mình, khắt khe với người (ÐHV 304).

Sau đệ nhị thế chiến, nước Ý hầu như hoàn toàn tan nát vì bom đạn và ách Phátxít của nhà độc tài Mussolini. Ông De Gasperi đã can đảm, sáng suốt lèo lái công cuộc phục hưng quốc gia về mọi mặt. Lúc ông mất (1954), người ta khám phá ra trong phòng ông có hai rương đầy ắp giấy tờ; nhìn kỹ thì toàn là bài gẫm mỗi ngày do chính tay ông ta viết ra năm này qua năm nọ. Ai nấy đều ngạc nhiên và càng thêm lòng thán phục quý mến một nhà chính trị khéo léo, đồng thời là tông đồ thánh thiện đã hy sinh trọn đời cho dân tộc, tận tụy với công việc mà vẫn không bỏ qua những giây phút sống nội tâm, nguyện cầu.

Tổng Thống De Gasperi đã làm tông đồ trong sứ mệnh của ông. Ðức Piô XII đã cho chôn xác ông trong đền thờ thánh Lôrensô, cạnh mồ Ðức Thánh Cha Piô IX.

2. Viên Thị trưởng nhiệt thành

* Tông đồ là thánh hóa môi trường bằng môi trường, lao động là tông đồ của lao động, học sinh là tông đồ của học sinh, bộ đội là tông đồ của bộ đội... (ÐHV 293).

* Kẻ thù hiểm nhất của công việc tông đồ là kẻ "nội thù", Giuđa nộp Chúa. (ÐHV 314).

* Kẻ thù khốc hại nhất của đời tông đồ con không phải là kẻ ngoại thù, đối lập con, nhưng là kẻ nội thù: chính bản thân con có thể thành tên gián điệp làm việc cho cả hai bên: Thiên Chúa và ma quỷ (ÐHV 315).

Là một giáo sư đại học lỗi lạc, một chính trị gia nổi tiếng, ông La Pira, Thị trưởng thành phố Florence, còn là một tông đồ giáo dân hăng hái nhiệt thành, sống đời toàn hiến trong bậc độc thân và chuyên tâm nghiên cứu các vấn đề thần học cách sâu xa kỹ lưỡng. Có lần, một chị ủy viên Italia kia dâng mình vào Dòng Kín. Buổi lễ được Ðức Hồng Y Agagiania đến chủ tọa và đặt Mình Thánh Chúa, còn thuyết trình viên về đề tài "Ðời sống chiêm niệm" trước mặt Ðức Hồng Y chính là Thị trưởng La Pira!

Ông La Pira còn hoạt động tông đồ ngay trong môi trường chính trị một cách hăng say với tư cách là một Thị trưởng. Giữa lúc giặc Mỹ xâm lược dội bom xuống Hà Nội, ông đã đến thăm Việt Nam và bàn về vấn đề vãn hồi hòa bình, xây dựng nước Việt Nam độc lập thống nhất.

Thế giới đều biết tiếng ông La Pira và khâm phục tài năng cũng như lòng đạo đức của ông.

3. Tông đồ hớt tóc dạo

* Bị nhục mạ, bắt bớ, đuổi từ thành này sang thành khác, là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ thật. "Tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn Thầy, họ đã xử với Thầy thế nào, cũng sẽ đối xử với các con như vậy. Hãy vui mừng hoan hỉ... vì nếu chúng con theo thế gian, thì thế gian không ghét chúng con." (ÐHV 295).

Lắm kẻ ở thành phố Hồ Chí Minh quen biết một cụ già hớt tóc dạo, theo đạo Tin lành, người rất vui vẻ, dù vợ đã chết, con cái ở xa, có đứa đi nghĩa vụ. Cụ sống trong một căn nhà lụp xụp nhưng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Mỗi khi khởi sự hớt tóc là cụ nói ngay đến Phúc Âm, đến Chúa Jésus-Christ. Nhiều người khó quên được câu nói của cụ: "Tôi không ham giàu gì, kiếm được đủ ăn và lo "hầu Chúa" hằng ngày là tôi sung sướng thỏa mãn!"

Cụ hân hoan về sứ mạng Chúa Kitô trao cho cụ và đã lợi dụng nghề hớt tóc của mình để triệt để thi hành sứ mạng ấy.

4. Cha gánh nước thuê

* Bị nhục mạ, bắt bớ, đuổi từ thành này sang thành khác, là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ thật. "Tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn Thầy, họ đã xử với Thầy thế nào, cũng sẽ đối với các con như vậy. Hãy vui mừng hoan hỉ... vì nếu chúng con theo thế gian, thì thế gian không ghét chúng con." (ÐHV 319).

Thời Tự Ðức cấm đạo gắt gao, có một linh mục tên "cụ Thanh" cải trang đi gánh nước thuê tại chợ Ðông Ba, Huế. Ban ngày làm việc lam lũ, tối về trú ngụ nhà bà Tham, thuộc xứ Gia Hội.

Nhờ gánh nước thuê mà cụ Thanh tiếp xúc được với nhiều giáo dân, cho họ chịu các phép Bí tích, giải tội cho các tín hữu bị giam ở khám đường, nhất là cho những ai sắp ra pháp trường lãnh phúc Tử Ðạo. Cụ thường trà trộn trong dân chúng, làm dấu sao đó để các giáo hữu nhận ra mình.

Lúc linh mục Ðặng Ðức Tuấn bị bắt đưa ra Huế để xử, ngài được tự do tạm một thời gian để làm bản điều trần nổi tiếng về đạo Công giáo. Trong những tháng ngày ấy, thỉnh thoảng ngài ghé thăm nhà bà Tham ở Gia Hội. Trong nhà bà có tên đầy tớ hầu hạ cơm nước rất lễ phép, kính cẩn. Sau đôi ba lần thăm viếng, cha Ðặng Ðức Tuấn để ý suy nghĩ: "Anh này sao thấy có vẻ quen quen".

Một hôm đang ngồi ở bàn ăn, Cha Tuấn đăm đăm nhìn vào mắt tên đầy tớ đứng ở góc phòng, rồi bạo dạn hỏi: "Phải mày không Thanh?" - "Thưa phải" - "Trời đất! Vậy mà bao nhiêu tháng nay tao nhìn không ra". Nói đoạn cha Tuấn ôm choàng lấy cụ Thanh nước mắt chảy ròng ròng... Thì ra hai anh em đã học cùng nhau một trường ở Penang (Malaysia), sau bao nhiêu năm dài xa cách giờ đây mới gặp nhau lại!

Cụ Thanh vẫn tiếp tục nghề gánh nước thuê như cũ... Cho đến một hôm, sắc tha đạo được triều đình ban bố, Ðức Cha Bình (Sohier) bấy giờ mới ra mắt công khai và chọn ngày làm lễ tạ ơn trọng thể tại Kim Long, nơi có Tòa Giám mục. Giáo dân khắp nơi hân hoan tựu về mừng lễ thật đông đảo. Cả những vị quan trong triều và người bên lương ở Kinh đô cũng đến để xem. Trong lễ hát trọng thể ấy, vị chủ tế không phải là Ðức Cha Bình mà là... Cụ Thanh. Giáo dân xôn xao, người bên lương thì ngạc nhiên khen ngợi và trầm trồ bảo: "Ngỡ là ai, hóa ra cụ Thanh gánh nước thuê ở chợ Ðông Ba. Không ngờ ông ta giữ chức vụ to đến thế. Ông ca La tinh thật hay, mà cả ông Tây cũng phải quỳ chầu nữa...".

Cụ Thanh đã tìm ra phương pháp tông đồ cho thời đại mình dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa Thánh Linh.

5. Tông đồ trên máy phát thanh

* Giọng tự mãn khiến mọi người lánh xa, không ai tin con làm tất cả thay Chúa Thánh Thần (ÐHV 317).

Ai cũng biết những tác phẩm của Ðức Cha Tihamer Toth, một nhà đại giáo dục nước Hung Gia Lợi, như: "Kinh tin kính", "Mười điều răn", "Chúa Cứu Thế với thanh niên", "Chí khí người trẻ"... Các tác phẩm ấy rất thiết thực, hấp dẫn, đã được ngài nói trên đài phát thanh và thu hút rất đông thính giả, nhất là thanh niên nam nữ tại nước ngài.

6. Tông đồ truyền hình

* Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới. "Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế", và Ngài ban cho Hội Thánh lễ Hiện Xuống mới (ÐHV 296).

Như đã nói, ngoài công việc của một Giám mục phụ tá, một giám đốc toàn quốc của Hội Truyền bá Ðức tin, Ðức Cha Fulton Sheen còn dâng hiến cả cuộc sống để làm tông đồ trên máy truyền hình nữa... Từng triệu giáo dân trong và ngoài nước Mỹ cũng như lương dân khắp nơi đều chăm chú theo dõi các bài giảng của Ðức Cha trên màn ảnh truyền hình. Tin Mừng được thổi vào nhà họ như làn gió mát mang nguồn sinh lực cho những giờ khắc hoang mang, chán nản, Ðức Cha Fulton Sheen đã đáp ứng nhu cầu Lời Chúa của thời đại mới bằng phương pháp mới vậy.

7. Tấm gương của một đại tông đồ truyền giáo

* Hăng say hết mình, nhưng biết chia sẻ với mọi người, biết cộng tác với kẻ thua mình. Ðừng làm đại lý tất cả, hầu như từ lúc con khởi sự hoạt động mới có trời đất muôn vật (ÐHV 297).

* Việc Chúa, không ai được giữ độc quyền đại lý. Các tông đồ thưa Chúa: "Có người không theo chúng con mà lấy danh Thầy trừ quỷ." Chúa bảo: "Ai không chống Ta thì thuận với Ta" (ÐHV 306).

* Tâm hồn tông đồ kính trọng thượng cấp, kể cả khi trình bày ngược lại chỉ thị, và không bao giờ vô lễ trước mặt kẻ khác. Không thể tha thứ thái độ bất tuân, hai lòng (ÐHV 316).

* "Tông đồ bằng bữa ăn". Bữa cơm là chuyện thường tình, nhưng Chúa ăn ở nhà Mađêlêna, ở nhà Simon, Giakêu, khác xa chúng ta: "Hôm nay sự cứu rỗi đã đến với nhà này!" (ÐHV 326).

* Ðừng ham đại chúng, đừng vụ số đông, hãy xác tín vấn đề cán bộ; quần chúng lộn xộn rời rạc, chỉ cần một cán bộ đủ khuấy động, đủ khơi dậy cả quần chúng; cán bộ là hồn, là bộ óc, là xương sống của quần chúng (ÐHV 338).

Thánh Phanxicô Xaviê là một tiến sĩ lừng danh ở đại học Sorbone, Pháp, cùng lúc lại được giữ chức vụ Khâm sai của Ðức Giáo Hoàng. Với tài năng và chức vụ ấy, cộng với lòng nhiệt thành tông đồ nóng hổi, ngài đã lên đường truyền giáo khắp nơi.

Nhưng Á châu đất rộng mênh mông, đường đi lại gian nan trắc trở, thánh nhân đã làm thế nào?

* Ngài đã nghiên cứu phương pháp truyền giáo, tâm lý của dân bản xứ nơi Ngài đến giảng đạo.

* Vạch ra những quy luật buộc nhà truyền giáo phải noi theo.

* Gieo rắc hạt giống xong nơi nào, ngài liền xếp đặt, huấn luyện những kẻ cộng tác, thừa kế, rồi lại ra đi rao giảng. Ở phương trời xa, ngài dùng thơ từ để dạy dỗ, giải đáp, động viên tinh thần họ, thúc đẩy họ tiến lên.

Năm 1904, ngài được Ðức Piô X đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo, không phải chỉ vì ngài đã rao giảng và rửa tội cho một số lớn lương dân; nhưng còn vì đã vạch ra phương pháp truyền giáo cho các cộng sự viên của Ngài, thời đại Ngài và cho cả muôn ngàn thế hệ mai sau nữa.

8. Một bàn tay kín đáo

* Cái "tôi" của con càng bành trướng thì việc tông đồ càng thất bại, cái "tôi" của con càng tan biến, việc tông đồ càng kết quả (ÐHV 302).

* Lãnh nhận một trách nhiệm tông đồ là sẵn sàng chấp nhận chịu "tử đạo" bởi mọi người, ở mọi nơi, bằng mọi cách, với tất cả yêu thương và bền chí như Phêrô và Gioan: Họ từ hội đường ra về vui vẻ vì đã được xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Chúa (ÐHV 313).

* Người ta không để ý đến sự hiện diện khiêm tốn và hoạt động thầm lặng của tông đồ. Nhưng sự vắng mặt của tông đồ làm cho người ta thấy ngay môi trường trống rỗng và chết lạnh. Không ai chú ý và quí trọng muối, ánh sáng, khí trời, nhưng thiếu chúng là vũ trụ chết ngay. Không ai để ý quả đất đang hoạt động, xoay vần, nhưng nếu nó đứng lại chúng ta cũng tiêu diệt (ÐHV 342).

Cha Phêrô đau thương hàn nặng và qua đời. Nhiều kẻ đến giúp tang gia. Người ta mở tủ kiếm y phục để thay cho ngài, nhưng lục lọi một hồi lâu mà vẫn không thấy một mảnh áo quần nào cả. Các linh mục bạn rất đổi ngạc nhiên, giáo dân thì đâm ra hồ nghi không biết trong lúc đau ốm, ai đã đến lấy trộm áo xống của ngài.

Người ta tra hỏi Hội đồng giáo xứ, quyết tìm cho ra lẽ. Bấy giờ họ mới trình bày lẽ thật: "Kính thưa quí cha, không ai lấy trộm đồ cha xứ chúng con hết! Ngài đã bố thí tất cả, nhưng rất kín đáo, nên chẳng một ai hay biết. Ngài giao cho anh em chúng con thuốc men, tiền bạc, quần áo, thức ăn để giúp những gia đình thiếu thốn. Ngài chỉ còn mỗi hai bộ quần áo, một bộ đang mặc, còn bộ kia bẩn chưa giặt được... Tất cả chỉ ngần ấy thôi!"

Bây giờ mọi người mới vỡ lẽ. Giáo dân cũng như lương dân trong xứ vô cùng xúc động vì bấy lâu nay chính ngài đã giúp đỡ họ cách kín đáo, tế nhị mà họ chẳng hay.

9. Một cuộc đầu tư hữu ích

* Sẵn sàng hy sinh những tiện nghi con thấy không hợp cho một tông đồ đích thực. Ðừng tạo nên những sự cần thiết không cần (ÐHV 303).

* Quả tim con phải rộng đủ để chứa đựng và rung nhịp với tất cả chương trình Phúc Âm hóa của Hội Thánh ( ÐHV 331).

Tạp chí "Truyền Bá Đức Tin" có thuật lại câu chuyện một cụ già Ấn Ðộ, lúc còn là thanh niên đã say sưa nghiện ngập cà-phê, thuốc lá, rượu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Ðọc xong, chàng rất đổi phân vân: một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ ấy lại quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì!

Tuy nhiên chàng đã quyết định: bỏ tất cả, nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu xài ấy vào quỹ Truyền Bá Ðức Tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cụ thể, liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều... Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện cà-phê, thuốc lá, rượu mạnh xưa kia trở thành cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: "Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rãi rác khắp nơi được tôi giúp đỡ lên đến 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư cho đến giờ Chúa gọi".

10. Tre tàn, măng mọc

* Ánh sáng tông đồ của con phải chuyển sang những lớp tông đồ khác, cho đến lúc thế gian từ u tối tràn ngập hào quang. Làm tông đồ cho tông đồ (ÐHV 305).

* Nếu mỗi giáo xứ, con huấn luyện được 5 chiến sĩ đích thực thôi, nhưng người đến sau con, sẽ sử dụng, hợp tác với họ, quyết sinh, quyết tử suốt ba bốn chục năm. Bao nhiêu tiềm lực chúng ta quên khám phá, khai thác trong nước Chúa. (ÐHV 337).

Thánh Gioan Ðoàn Trinh Hoan sinh năm 1798 tại Kim Long, tỉnh Thừa Thiên. Ngài là một linh mục thánh thiện, gương mẫu đã can đảm hy sinh vì Chúa tại Ðồng Hội ngày 26.5.1861. Mặc dù thời buổi cấm cách ngặt nghèo, ngài không quên nhiệm vụ to lớn và quan trọng cho tương lai là lo chuyển bó đuốc tông đồ sang tay các thế hệ trẻ. Ngài đã huấn luyện được 12 người con làm linh mục. Vì thế, tuy máu ngài đã đổ ra vì Chúa, 12 người con ấy vẫn tiếp tục sứ mạng anh dũng của ngài cho đến ngày tàn của cuộc đời. Và họ cụ thể, "tre tàn măng mọc", lớp này ngã xuống, lớp khác đứng lên!

11. Không chút nản lòng

* Cần chọn lọc nhưng đừng chỉ trích, bất tín nhiệm, khinh rẻ. Những tông đồ Chúa Giêsu chọn để xây dựng cả Hội Thánh cũng đầy khuyết điểm. Ngài chỉ cần họ đơn sơ, chân thành theo Ngài (ÐHV 301).

* Trong việc tông đồ, huấn luyện và lựa chọn chiến sĩ tâm huyết tối quan trọng. Một lãnh tụ lỗi lạc đã nói: "Nếu có ba trăm chiến sĩ, tôi sẽ cai trị đến chết." Chúa Giêsu chọn 12 người để tồn tại đến tận thế (ÐHV 309).

* Con đừng do dự về con và về người khác: chài lưới như Phêrô, thu thuế như Matthêu đều làm tông đồ được. "Hãy theo Thầy, Thầy sẽ làm cho chúng con chinh phục người ta." Con làm không được nhưng Thầy làm được (ÐHV 330).

Thấy Thánh Gioan Boscô đi thu nhặt bọn cao bồi, du đảng, cặn bã xã hội về nuôi dưỡng, yêu thương, giáo dục, lắm kẻ cho là việc luống công vô ích. Mà nhận xét của họ lúc đầu cũng có vẻ đúng, vì nhiều đứa thói nào tật ấy, ở với thánh nhân một thời gian rồi lại trốn đi, mang theo cả chăn áo, đồ vật trong nhà. Nhưng thánh Gioan Boscô không chút nản lòng, vẫn đem hết tâm hồn huấn luyện chúng, đổ bầu nhiệt huyết tông đồ từ quả tim ngài sang quả tim chúng. Thế rồi ngay lúc còn sống, ngài đã đào tạo nhiều linh mục, tu sĩ, mở nhiều nhà huấn luyện khắp các nước Âu châu, nắn đúc được nhiều giáo dân, công dân tốt, phái một đoàn truyền giáo sang Nam Mỹ giảng đạo. Ngài được phúc thấy một đứa con trong đám lâu la của mình lên làm Giám mục tại Nam Mỹ, sau này được vinh thăng lên Hồng y: Hồng Y Cagliêrô. Hơn thế nữa, một cậu thiếu niên trước kia ở với Ngài là Ðôminicô Saviô lại được phong Thánh. Kẻ kế vị ngài cũng trở thành Thánh, là cha Don Rua.

12. Một thánh một thể

Mỗi vị thánh đều có một lối riêng để thể hiện cuộc sống của Chúa Giêsu trong đời mình. Vườn hoa muôn sắc của Hội Thánh gồm đủ mọi giống hoa, không hoa nào giống hoa nào cả: có hoa bò dưới đất, có hoa lại leo trên cành; hoa này nở về đêm, hoa kia khoe sắc lúc mặt trời đúng ngọ. Chính cái đẹp thiên hình vạn trạng ấy khiến lòng người cảm thấy ngây ngất. Tùy theo ơn soi sáng của Thánh Linh, các Thánh đã sống Tin Mừng mỗi người mỗi vẻ:

* Thánh Phanxicô Salêsiô làm linh hướng cho Hoàng hậu nước Pháp, được triều đình hết sức trọng kính, đến nỗi mời kiêm luôn chức cố vấn cho nhà vua. Một hôm thấy thánh nhân đang ngồi trên xe, một người Tin lành vốn có óc ác cảm bước ra chận lại và hỏi:

- Trong Thánh Kinh đâu có chỗ nào cho thấy các thánh Tông đồ đi xe mà nay ông lại đi xe!

- Có chứ! Thánh Phanxicô Salêsiô nhanh trí và dịu dàng đáp.

- Chỗ nào? Ông nói tôi nghe!

- Ông bạn không nhớ à! trong Công vụ tông đồ (8, 26-40) có kể lại câu chuyện hoạn quan của nữ hoàng Kandakê, nước Êthiôpi, trên đường đi từ Giêrusalem xuống Gaza, đã mời phó tế Philipphê cùng lên ngồi xe để giải thích sách Tiên tri Isaia cho ông ta nghe đó!

* Thánh Phanxicô Assisiô, trái lại bắt chước Chúa Giêsu trong cuộc sống khó nghèo hoàn toàn. Ngài trút bỏ y phục cho cha khi bắt đầu cuộc đời chứng nhân phiêu lưu vô địch. Sau đó chỉ sống bằng nghề ăn xin. Ðến khi sai đệ tử đi rao giảng Tin Mừng, ngài bắt phải thực thi các chỉ thị truyền giáo của Chúa (Mc 6, 8-9) sát mặt chữ. Phần ngài, cũng vì khiêm tốn, ngài chỉ chịu chức phó tế, từ chối chức linh mục.

* Thánh Brunô lập Dòng Cartusianô suốt đời sống trong thinh lặng. Thánh Canasiô lại đi rao giảng cho anh chị em Tin lành khắp mọi nơi.

* Thánh Vinh Sơn Phaolô ngày đêm lo việc từ thiện bác ái. Nhưng thánh Simong Cột, suốt mấy mươi năm trường chỉ ở trên cột để cầu nguyện, giữa nắng giữa mưa!

13. Cha của người cùi

* Những điều con ước ao mà không thực hiện được, lắm lúc đẹp lòng Chúa và công nghiệp hơn tất cả kết quả mà con đắc chí (ÐHV 298).

* Không cần địa vị nào mới làm tông đồ được. Ðừng thắc mắc địa vị con hay địa vị người khác; làm vì Chúa hay vì địa vị? "Việc ngồi bên tả hay bên hữu là việc Ðức Chúa Cha" (ÐHV 310).

* Nay địa vị này, mai địa vị kia, người tông đồ không cảm thấy mất mát gì cả, chỉ biết một tiếng gọi: "Ðến để phục vụ, không để được hầu hạ." Ở đâu cũng nên thánh (ÐHV 311).

* Con buồn vì mất địa vị, vì không được "đặt đúng chỗ", con đi buôn sao mà buồn vì lỗ lã? (ÐHV 312).

Sau 15 năm làm Giám mục địa phận Sài Gòn, Ðức Cha Gioan Cassaigne đã tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân cùi thân yêu ở Di Linh, trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một chứng nhân tình yêu Thiên Chúa, một con người của bác ái vị tha. Mười tám năm trời ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh nhân quê mùa chất phác, không mấy ai biết rõ, nhưng khi quả tim vị anh hùng ấy ngưng đập, thì quả tim của dân Việt cũng như của toàn thể thế giới đều rung cảm lên. Ai nấy đều cảm phục tấm gương chứng nhân anh dũng của ngài.

14. Có râu - không râu

* Việc tông đồ nhằm đưa người ta vào Hội Thánh, không phải để lập những Hội Thánh riêng của nhóm này nhóm nọ, dòng này, dòng kia. Chưa rối đạo, nhưng rối việc đạo lắm (ÐHV 320).

Ðây là một câu chuyện hài hước, dí dỏm:

Trong ngôi thánh đường nổi tiếng nọ ở Ý, người ta thuê một họa sĩ trứ danh đến vẽ một bức ảnh của Thánh Phanxicô Assi thật lớn. Hôm họa sĩ bắt đầu chuẩn bị thuốc sơn, giá vẽ, thì một tu sĩ Phanxicô đến góp ý thế này: "Xin họa sĩ lưu ý, thánh Phanxicô không có râu đâu, phải vẻ cho đúng sự thật".

- Vâng, tôi sẽ làm ngài thỏa mãn!

Hôm sau, một tu sĩ ngành Capuxinô lại đến gợi ý: "Họa sĩ nên nhớ. Thánh Phanxicô của chúng tôi có râu đàng hoàng, phải vẽ cho đầy đủ"

- Vâng, xin ngài cứ yên tâm! Thế là cuộc tranh chấp "cha thánh của chúng tôi có râu - cha thánh của chúng tôi không có râu" đã bùng nổ. Khổ nhất là nhà họa sĩ, cứ bị hai nhóm đến quấy rầy, làm mất nhiều giờ lao động. Và rồi biết theo ý kiến ai đây!

Suy nghĩ một thời gian lâu, cuối cùng ông nảy ra ý kiến: treo một bức màn ngăn lại, rồi ngồi vẽ sau bức màn ấy, kèm theo lời tuyên bố: "ngày khánh thành mới hạ màn xuống và ai nấy sẽ thỏa mãn".

Ngày khánh thành đã đến! Tu sĩ hai phe và giáo dân trong vùng nghe phong phanh về câu chuyện ấy kéo nhau tới thật đông trước nơi làm việc của họa sĩ. Nghi thức khai mạc bắt đầu, bức màn từ từ hạ xuống, mọi người đều nín thở, hồi hộp... Trên khung ảnh, Thánh Phanxicô Assi hiện ra nằm dài, mình đắp chăn, trông có vẻ ốm liệt. Oái oăm thay, chiếc chăn ấy lại kéo lên tận sống mũi, khiến chẳng ai biết vị thánh nghèo có râu hay không có râu: đúng là bên nào cũng thỏa mãn!

15. Vì tôi là người Công giáo

* Trước khi phàn nàn người nọ người kia, hãy tự hỏi mình: "Muối của tôi còn mặn không? Ðèn của tôi còn sáng không?" (ÐHV 300).

* "Tông đồ bằng hy sinh và thinh lặng" như hạt lúa chôn vùi, nát thối để sinh muôn ngàn hạt khác nuôi nhân loại. "Tông đồ bằng chứng tích." Lời quả quyết suông không đáng người ta tin tưởng mấy, dù ngọt ngào trau chuốt đến đâu. Tang vật đáng tin hơn. Hình ảnh chụp được, tiếng nói ghi âm được, càng dễ đánh động người ta hơn.

Nhưng chính con người sống động bằng xương thịt, nếu cả cuộc sinh hoạt, nếu cả một lớp người, một gia đình cùng sống một lý tưởng, thì chứng tích ấy có một sức mạnh thuyết phục lớn lao biết chừng nào! (ÐHV 322).

Trong thời đệ nhị thế chiến, tại một nước Châu Á mà đa số dân chúng đều theo Phật giáo hay thờ cúng Tổ tiên, nhiều cuộc giao tranh ác liệt đã xảy ra. Hầu hết mọi người đều phải di tản. Các cơ sở đều bị phá tan tành.

Khi hòa bình được tái lập, tất cả chỉ còn là một đống tro tàn tỏ tường: cầu cống, dinh thự, nhà cửa, nhất là viện bảo tàng đồ sộ của quốc gia. Nhưng một điều khiến ai nấy cũng lấy làm ngạc nhiên là hết thảy báu vật của viện bảo tàng vẫn nguyên vẹn. Thì ra chúng đã được ông Giám đốc già can đảm bảo vệ đến giây phút cuối cùng và di tản đến nơi an toàn hơn. Và khi mọi sự đã sinh hoạt bình thường, ông lại tự nguyện đứng ra xây một viện bảo tàng mới với vốn vay ở ngân hàng, hứa sau này sẽ trả góp nhờ thu tiền vé của khách du lịch, không xâm phạm một xu của công quỹ Nhà Nước.

Ngày khánh thành viện bảo tàng, báo chí đều đăng tải công lao của ông, và nhân dân trong nước hết sức hoan nghênh và cảm phục ông. Nhà Nước cử ông làm Giám đốc viện bảo tàng cho đến vĩnh viễn và trao tặng huy chương cao quý để cám ơn ông vì đã có công giữ gìn các báu vật của quốc gia khỏi tổn hại. Vì như mọi người khác, ông cũng đã có thể bỏ chạy, cũng đã có thể giấu ít đồ qúy, bảo là đã tiêu tan dưới bom đạn, để rồi sau đó ngầm bán ra ngoại quốc kiếm chút ít cho bản thân mình.

Khi đứng trước quần chúng cảm phục, thắc mắc, hỏi han, cụ già Giám đốc đã trả lời cách đơn sơ, khiêm tốn và bình thản: "Tôi đã làm vậy chỉ vì tôi là người Công giáo".

Những báu vật cụ đã gìn giữ nguyên vẹn nay vẫn được trưng bày trong viện bảo tàng quốc gia. Cứ ba tháng, người ta thay đổi một lần, cất đồ cũ vào, đem đồ mới ra và phải làm như thế trong khoản 15 năm mới xong một vòng đầy đủ, ngần ấy đủ biết kho báu quý giá chừng nào và số lượng lớn lao ngoài sức tưởng tượng.

16. Tông đồ tiếp xúc

* Làm tông đồ là "làm như các thánh Tông Ðồ". Nếu không nghiền ngẫm và thuộc lòng Tông Ðồ Công Vụ, thì con không làm tông đồ đắc lực được (ÐHV 291).

* "Tông đồ bằng tiếp xúc": "Phải chăng tâm hồn chúng tôi sốt mến khi nói chuyện với Người dọc đường?" Con không nghĩ rằng: mỗi cuộc tiếp xúc là một công tác tông đồ sao? (ÐHV 323).

Tuy chỉ làm Giáo Hoàng trong một thời gian vắn vỏi, không đầy năm năm, nhưng Ðức Gioan XXIII đã làm tươi trẻ hẳn khuôn mặt của Hội Thánh. Trong suốt quảng đời trên ngôi Giáo hoàng ấy, ngài đã đi thăm phạm nhân ở trại giam Ara Coeli, viếng các trẻ em ở viện nhi đồng, đột xuất chống gậy đến với các công nhân đang làm việc trong vườn hoặc ở nhà in Vatican. Trong các buổi triều yết, tính hồn nhiên, những câu chuyện dí dỏm và lòng nhân ái từ ngài phát xuất ra thật là như sức nóng sưởi ấm mọi con tim lương giáo vây quanh ngài. Qua Công đồng Vatican II do ngài triệu tập 11.10.1962, ngài đã mở một con đường xinh đẹp cho Hội Thánh tiếp xúc với thế giới, với anh em không Công giáo, với anh em Vô thần, khai mào một giai đoạn cởi mở và thông cảm. Ngài đã để lại một câu nói bất hủ: "Nếu Hội Thánh không đến với nhân loại thì nhân loại không đến với Hội Thánh".

17. Các tông đồ tư tưởng

* "Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi." Một tông đồ sa đọa làm hỏa ngục vui mừng hơn cả một đoàn lũ. Hãy cầu nguyện và nâng đỡ nhau (ÐHV 294).

* "Tông đồ bằng tư tưởng": nâng đỡ một người bạn đang lung lạc, mở chân trời cho bạn thấy khả năng và ơn gọi cách sáng tỏ, đem hy vọng cho một cuộc đời sắp tan vỡ. Báo chí sẽ bớt đăng những tin uống thuốc ngủ... độc dược... nếu có những người như con. (ÐHV 324).

Ở đây, cha xin nhắc đến một đôi văn hào hiện đại đã đem tư tưởng thấm nhuần Tin Mừng của mình sáng soi cho nhiều người khắp thế giới.

Văn hào Francois Mauriac (1885-1970), thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, đã viết nhiều tiểu thuyết mô tả cuộc tranh chấp giữa đức tin và xác thịt, nhiều vở kịch có nội dung và tinh thần Kitô giáo. Ông được tặng giải thưởng Nobel văn chương năm 1952.

Văn hào Thomas Merton, về sau vào Dòng Khổ tu, đã để lại rất nhiều tác phẩm trứ danh được dịch ra nhiều thứ tiếng từ Anh ngữ, chẳng hạn như: Không ai là một hòn đảo, Hạt giống chiêm niệm, Sống đời tĩnh niệm...

Văn hào John Wu, trước là đại sứ của Trung Hoa tại các nước, sau đi tu làm linh mục, đã để lại nhiều tác phẩm về triết lý Ðông Tây, làm cho nhiều giới suy nghĩ.

Văn hào Daniel-Rops (1901-1951) thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, sau khi trở lại đạo Công giáo, chỉ chuyên viết về Chúa Kitô và Hội Thánh của Người. Những pho sách súc tích, có giá trị văn chương cũng như lịch sử, khoa học của ông đã được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần: như "Cuộc đời Ðức Giêsu trong lịch sử" đã được tái bản đến 538 lần ngay lúc tác giả còn sống! Những tác phẩm đó đã soi sáng đức tin cho không biết bao nhiêu người, nhất là hạng trí thức.

Bác sĩ Tagaski Nagai (1908-1951) người Nhật Bản nạn nhân của bom nguyên tử thả xuống Hiroshima. Ông đã may mắn sống sót nhưng chết vợ hiền và thương tích đầy khắp thân thể. Tuy đau khổ tâm hồn về gia đình tan nát, quặn quại thể xác vì cơn bệnh hoành hành, bác sĩ Nagai vẫn vừa vui tươi nghiên cứu khoa học, thí nghiệm trên thân xác mình các thứ thuốc điều trị hậu quả của chất phóng xạ, vừa tường thuật những ngày còn lại của đời ông. Thật là một gương sáng về tin yêu, hy vọng cho mọi người trên khắp thế giới.

Ðức Hồng Y Saliège, người phụ trách mục "Mảnh vụn suy tư (nhưng dấu tên) trong một tuần báo Công giáo ở Toulouse (Pháp). Mục này các độc giả rất thích đọc, vì nó vừa dí dỏm vừa thấm thía sâu sắc, bắt người ta phải suy nghĩ. Tuy nhiên không ai biết rõ tên tác giả là gì, mấy chục năm sau mới biết là Ðức Hồng Y Saliège.

18. Tông đồ thiếu nhi

* "Tông đồ bằng đau khổ", không giảng giải, không hoạt động, nhưng thinh lặng tế lễ cứu bao linh hồn. Chúa Giêsu hấp hối trên thánh giá, Ðức Mẹ hấp hối trong tâm hồn dưới chân Thánh Giá (ÐHV 321).

* Từ xưa, "thiếu nhi" đã làm tông đồ đầy dũng cảm: Tarcisio đã mang Chúa đến bao nhiêu người. Hãy ghi lời Chúa: "Ðừng khinh dể trẻ con." (ÐHV 328).

Chiaretta sinh ra trong một gia đình nghèo nàn, thêm thay mới bốn tuổi đầu lại mắc bệnh nặng, làm mủ trong phổi, khó thở thường hay mửa ra máu. Cha mẹ em, mặc dù nghèo khó, nhưng vì thương con tha thiết, vẫn đưa em đi bệnh viện này đến bệnh viện kia. Gia đình cứ thay đổi chỗ ở luôn để mong em chóng khỏi. Nhưng các bác sĩ đều bó tay bất lực. Chiaretta phải chết sớm thôi!

Trong cơn buồn phiền, cha mẹ em tình cờ nghe nói đến phong trào Bác Ái Hiệp Nhất (Focolare), liền đưa em đến một bệnh viện gần trung tâm Loppiano, và cả gia đình tập sống yêu thương theo Lời Chúa. Sau một thời gian, bầu khí gia đình trở nên sốt sắng hẳn. Chính em Chiaretta sống Lời Chúa cách đơn sơ thâm trầm nhất.

Hằng ngày, Chiaretta rước Chúa Giêsu Thánh Thể và cố gắng sống giây phút hiện tại. Em ghi tên vô lớp học nhưng suốt năm chỉ đến lớp được ba, bốn lần, vào những lúc khỏe nhất. Ngoài những lúc ấy, em phải luôn sống trong lồng dưỡng khí, thở bằng khí oxy. Ngày ngày các bạn mang bài học về cho em, rồi nhận bài làm của em để nộp. Thế mà đến kỳ thi cuối năm, em đứng hạng nhất! Mặc dù biết mình không thể ở trần thế được bao lâu, Chiaretta vẫn sống giây phút hiện tại cách vui vẻ, vẫn làm bài vở như các bạn học. Cha mẹ, bác sĩ, y tá ai cũng xót xa cảm phục vô cùng. Ðặc biệt là mỗi lần chích cho em một mũi thuốc (mà mỗi ngày nhiều ống như thế), em cũng đưa tay ra kèm theo một nụ cười rất tươi tĩnh: "cứ chích cho em đi! đừng ngại! Có Chúa sống với em!"

Ngày cơn bệnh trở nên trầm trọng, cha mẹ Chiaretta đã quyết định đưa em về nhà. Lúc từ giã, em đi quanh bắt tay các bạn khác cùng phòng, nói một câu đơn sơ: "Chúng ta sẽ gặp nhau, không dưới đất thì trên Thiên đàng vậy!" Rồi em cám ơn bác sĩ, y tá và ra về vui vẻ. Mấy ngày sau Chiaretta giã biệt cõi đời, nụ cười vẫn tươi nở trên môi!

Hiện nay gia đình em đã sống hẳn tại trung tâm Focolare, Loppiane. Chính cha đã gặp cha mẹ của em Chiaretta và nghe thuật lại câu chuyện về đời em như vừa kể. Một em của Chiaretta cũng đang mắc bệnh như chị. Và cô bé này, mới 5 tuổi đầu, mà cũng chia sẻ kinh nghiệm sống Phúc Âm với cha!

19. Tông đồ của giới lao động

* Nếu con bảo "giáo dân có ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần" có người sẽ cho rằng con nhạo báng họ! Nếu con bảo "giáo dân là tư tế, tiên tri, vương giả", có người sẽ cho con là thệ phản! Có mấy giáo dân ý thức họ được Chúa gọi? Chúa cần họ? Hãnh diện và tri ân vì được làm con Chúa nhờ phép Thánh Tẩy? Làm chiến sĩ, chứng nhân cho phép Thêm sức? (ÐHV 333).

* Thời đại giáo dân. Bao lâu chưa động viên được toàn lực dân Chúa ý thức và hành động, các tầng lớp xã hội này chưa thể thấm nhuần Phúc Âm được (ÐHV 334).

* Bí quyết công cuộc tông đồ trong thời đại ta: Tông đồ giáo dân! (ÐHV 335).

Là con trai của một gia đình lao động ở Bỉ, cậu Cardji phải vất vả từ tấm bé. Ba của cậu chết sớm. Ngày ba cậu hấp hối cậu đã cầm tay ba và nói với ba:"Thưa ba, ba đã là một người thợ, một người cha gương mẫu, hy sinh vì các con. Con xin hứa với ba là sẽ cố gắng xứng đáng với ba, sẽ làm tông đồ phục vụ giới lao động!"

Cậu Cardji đã giữ lời hứa, dâng mình vào chủng viện để làm linh mục. Rồi với quả tim không ngớt thao thức phục vụ giới thợ thuyền, cha đã sáng kiến lập ra phong trào Thanh Lao Công (JOC). Với phương pháp "Xem-Xét-Làm", căn cứ trên dự kiện thực tế để giải quyết các vấn đề theo ánh sáng Phúc Âm, phong trào đã thành công rực rỡ. Giới trẻ lao động nhờ phong trào đã hăng say sống Ðức Tin và đấu tranh cho công bình, bác ái, giải phóng chính giai cấp của mình. Phong trào này lan khắp mọi nơi. Năm Ðức Ông Cardji kỷ niệm Kim khánh Linh mục, các bạn Thanh Lao Công đã tặng ngài một vé máy bay để ngài có thể đi năm châu thăm những kẻ chính tay ngài đã giải phóng. Ngài được giới trẻ khắp thế giới vô cùng yêu mến và ngưỡng mộ.

Ðể tỏ lòng ghi ơn của Tòa Thánh đối với ngài cũng như mến yêu sâu xa đối với giới trẻ, Ðức Gioan XXIII đã phong ngài làm Hồng Y. Ngài thường nói: "Tôi muốn leo lên mái nhà và la cho mọi người nghe một bí quyết: Phải dùng giáo dân làm tông đồ trong môi trường của họ".

20. Các Ðức Giáo Hoàng và Tu hội đời

* Tông đồ bằng "phụ nữ" rất đắc lực, từ bà Maria, bà Salomé theo giúp Chúa Giêsu, thánh Phaolô cũng nhắc đến nhiều phụ nữ tông đồ: "Xin gửi lời chào Tryphéna và Tryphosa, các bà đã liều công lao nhọc trong Chúa." (Rom. 16:12) (ÐHV 327).

* Hãy nghiên cứu các tu hội đời: thời đại mới, giải pháp mới, đó là ân đặc sủng của thời đại ta, sẽ làm thăng tiến đời sống thiêng liêng của bao giáo dân. Các Ðức Giáo Hoàng đã nhận thấy dấu hiệu của thời đại trước chúng ta những mấy chục năm (ÐHV 339).

* Ðường lối của tông đồ thời đại ta: - Ở giữa trần gian, - Không do trần gian, - Nhưng cho trần gian, - Với phương tiện của trần gian (ÐHV 340).

* Là chi thể của nhiệm thể, chúng ta là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ, đòi hỏi, là vai để gánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người khổ đau, là quả tim để khắc khoải yêu thương, là miệng để nói những lời bác ái ủi an. Nhờ tông đồ mà Hội Thánh hiện diện giữa thế giới ngày nay (ÐHV 341).

Chính các Ðức Giáo Hoàng đã mở lối, ban hành những chỉ thị sáng suốt, cũng như đặt hết tin tưởng vào Tu Hội Ðời. Chính các ngài đã được Thánh Linh soi sáng để đón nhận và hướng dẫn những tâm hồn tận hiến giữa trần thế trong thời đại ta. Sau đây, cha xin trích dẫn lời của một vài Ðấng đã nói đến Tu Hội Ðời. Ðó là những lời vàng ngọc mà ta phải suy ngắm để hiểu ý nghĩa của Tu Hội Ðời chúng ta.

Ðức Piô XII dạy:

* Về bản chất Tu Hội Ðời: "Các Tu hội này được kể là thuộc bản chất đời sống trọn lành, vì có nhiều tính cách giống với dòng tu. Cả hai như có mối liên hệ, bà con, có sự tương đồng chặt chẽ" (Tông Sắc Hội Thánh Mẹ Quan Phòng, số 6). "Các Tu Hội Ðời đã bắt đầu thành hình trong tiền bán thế kỷ vừa qua, do một ơn soi sáng đặc biệt của Chúa Quan Phòng, với mục đích đặc biệt cách trung thành giữa trần thế các lời khuyên Phúc Âm, và chu toàn cách tự do hơn những công việc bác ái mà các dòng tu bị thời thế, hoàn cảnh gây khó dễ hay hoàn toàn ngăn cấm không cho thực hiện được... Các Tu Hội Ðời cũng chứng tỏ rằng mình có thể làm thành một khí cụ rất hữu ích để xâm nhập môi trường và làm việc Tông đồ giữa trần thế" (Tông sắc HTMQP số 9).

* Về hoạt động của Tu Hội Ðời: "Sự phát triển tốt đẹp của Tu Hội Ðời chứng minh ngày càng rõ rệt hơn bằng các Tu Hội Ðời có thể:

- Phục vụ Hội Thánh và các linh hồn cách hữu hiệu.

- Sống mọi nơi mọi lúc đời sống trọn lành thực sự, trong những trường hợp mà đời sống dòng tu theo Giáo luật không thể thực thi hoặc khó thích ứng nổi.

- Kitô hóa cách thâm sâu gia đình, nghề nghiệp, xã hội nhờ sự tiếp xúc trực tiếp mỗi ngày của một cuộc đời toàn hiến cho việc thánh hoá.

- Làm việc tông đồ dưới nhiều hình thức và đóng những vai trò mà hoàn cảnh, nơi chốn, thời gian khiến linh mục và tu sĩ khó thực hiện được" (Tông sắc HTMQP số 10).

* Về đặc tính của Tu Hội Ðời:

"Tính cách trần thế là lẽ sống của Tu Hội Ðời". "Không những việc tông đồ của các Tu Hội Ðời phải được thực hiện giữa trần thế, nhưng cũng phải thực hiện với những phương tiện trần thế, nghĩa là với nghề nghiệp, hoạt động, hình thức, nơi chốn, hoàn cảnh thích hợp với điều kiện trần thế" (Tự sắc Sau Một Năm Tốt Đẹp số 11). "Tu Hội Ðời là ơn quan phòng của Thiên Chúa" (số 6).

Ðức Phaolô VI dạy:

"Tu Hội Ðời là một biến cố rất quan trọng cho cuộc sống hiện tại của Hội Thánh" (Diễn văn ngày 2.2.1972). "Các con là: một cành lá xinh tươi và mạnh mẽ của Hội Thánh trong giây phút lịch sử này, một cánh quân của Hội Thánh đang tiến mạnh giữa trần gian". (Diễn văn 20.9.1972)

21. Mảnh giấy trong chiếc huy chương

* "Tông đồ bằng hy sinh và thinh lặng" như hạt lúa chôn vùi, nát thối để sinh muôn ngàn hạt khác nuôi nhân loại. "Tông đồ bằng chứng tích." Lời quả quyết suông không đáng người ta tin tưởng mấy, dù ngọt ngào trau chuốt đến đâu. Tang vật đáng tin hơn. Hình ảnh chụp được, tiếng nói ghi âm được, càng dễ đánh động người ta hơn. Nhưng chính con người sống động bằng xương thịt, nếu cả cuộc sinh hoạt, nếu cả một lớp người, một gia đình cùng sống một lý tưởng, thì chứng tích ấy có một sức mạnh thuyết phục lớn lao biết chừng nào! (ÐHV 322)

Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quý tộc, Sophie Berdanska phải thất nghiệp đói rách, lang thang... Ngày kia gia đình Merston, một gia đình Do Thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên, khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là "nàng không được giảng đạo" cho con cái của ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một giòng chữ, xếp lại và bỏ vào huy chương cha nàng để lại rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy, nhưng Sophie nhất định không cho: Bí mật của đời cô mà!

Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình Merston càng ngày càng nên nhu mì, ngoan ngoãn. Cuộc sống đang trôi qua lặng lẽ thì một hôm, họa tai dồn dập xảy tới: Bé Naim đau nặng cả nhà cuống quít đưa bé đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng lại càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên, nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ, cho đến khi ba đứa nhỏ trở lại bình thường. Nhưng rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya, dậy sớm: Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua. Hôm nay là ngày giỗ của Sophie Berdanska. Người ta thấy cả gia đình Merston dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự Thánh lễ... Phải chăng là phép lạ?

Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, lúc tình cờ mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một xó, ông Merston rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: "Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn". Ông hết sức bàng hoàng cảm phục. Rồi gia đình của ông cũng thế. Và sau đó, tất cả mọi người đến nhà thờ xin nhận lãnh Bí tích Rửa tội.

Hôm nay, họ đang trên đường đến nhà thờ dự lễ giỗ lần thứ hai của Sophie Berdanska, vị tông đồ trẻ đã mang Tin Mừng đến cho họ bằng một cuộc sống âm thầm, nhưng chan chứa tình yêu, bác ái.

(Còn tiếp)

Tác giả: PX Nguyễn Văn Thuận

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Facebook Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Kênh Youtube Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập224
  • Máy chủ tìm kiếm27
  • Khách viếng thăm197
  • Hôm nay8,851
  • Tháng hiện tại342,662
  • Tổng lượt truy cập79,567,220
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây