Cỡi sao Cơ – Vĩ!
Nương ánh Khuê Tinh.(1)
Xe cưu mã rước thần xuôi lạc cảnh;(2)
Thuyền phúc ân nghinh phụ trẩy thiên đình.
Trí tụng suy - dạ bồi hồi nhớ cha khả kính;
Lòng thổn thức - tâm ngưỡng vọng công đức anh linh.
Khi xưa:
Can Mậu Niên Thìn, cắt rốn hòa nhân lọai;
Phú Cam Đất Huế, chôn rau nhập thế sinh.
Danh xưng: Văn Thuận;
Thánh hiệu: Phan Sinh.
Giống dòng tử đạo;
Thế phiệt trâm anh.
Đầy một giáp biệt mẹ cha, theo chân thiên triệu;
Đủ mười hai vào chủng viện, dõi gót duy linh.
Mài miệt rừng nhu biển thánh;
Luận suy bác cổ thông kim.
Mới tuổi hai lăm, chức thánh trao: thụ phong đời linh mục;
Vừa sang hai tám, bề trên phán: trẩy du học đăng trình.
Trương thư pháp làu làu Hán tự;
Gióng bút thần thông thạo La-Tinh.
Thêm nghiên cứu chữ Nha – Bồ - Pháp;
Lại trau dồi âm Bỉ - Hy - Anh.
Xuất dương hải ngọai tìm thâu tinh túy;
Hồi xứ sơn hà truyền đạt môn sinh.
Trồng cây nhỏ ươm mầm truyền giáo;
Gieo giống vàng gặt hạt Lan Đình. (3)
Chưa đủ bốn mươi, trí đẫy tràn ơn thần khí;
Ba mươi chín tuổi, tay quyền trượng dắt sinh linh.
Đất Nha Trang, tước chủ chăn đạt lý;
Đồng Phú Khánh, ngôi giám mục thấu tình,
Thuở điêu linh, đông tây so bì cốt nhục;
Thời tao lọan, nam bắc tán tận đệ huynh.
Dụng nhân trí vỗ về an chính đại!
Đem yêu thương ăm ắp nghĩa quang minh.
Từ Nha phận, vâng lời : nhận bài sai Tòa Thánh;
Đến Sài thành, tân nhiệm: Tổng Giám Mục kế quyền.
Ba mươi tháng tư - cơ trời vận nước;
Một chín bảy lăm – ngừng cuộc đao binh.
Thay cờ đổi chủ;
Quốc pháp gia hình.
Năm đinh mão chính ngày Mông Triệu;
Tiết trời thu đến khắc nộp mình?
Không bản án thế gian, mà cùm gông ngục thất?
Chẳng văn bài cáo trạng, sao xiềng xích xà lim?
Không bị gậy hành trang, không áo xống;
Chẳng bạc tiền lương thực, chẳng thông tin.
Nơi lao lý rực tràn ân cứu độ;
Chốn đọa đày cháy bỏng lửa thần linh.
Một giọt nước hòa chung ba giọt rượu;
Hai bàn tay dâng tiến lễ hy sinh.
Trong vô vọng cha khai “đường hy vọng”
Trước hận thù cha mở lối ân tình.
Bút thần khí trào tuôn trang giấy ố;
Ánh hắt hiu soi cửa sổ tụ hùynh.
Ba lượt lưu đày phát vãng;
Chín năm biệt lập ngục hình.
Thiên hạ thương tâm xứ;
Lao Lao tống khách đình.(4)
Này tù Phú Khánh - Cây Vông - Giang Xá;
Nọ ngục môn Nam – Trung – Bắc lưu trình.
Ủi an đồng nạn vững vàng cam khổ;
Cảm hóa quân canh thu phục lý hình.
Cận mặc giả hắc!
Cận đăng giả minh!(5)
Cuộc nhân thế khi thường khi biến;
Lẽ tuần hòan lúc nhục lúc vinh.
Năm ngàn buổi lao lung, trọng tù buông gông xóa án;
Mười ba năm thấm thóat, ngục sĩ tháo cũi cởi xiềng.
Nhìn qúa khứ đã sáu mươi: cây ngô đồng ngả bóng;
Nhủ tương lai dù lục tuế: thần hạc lão còn tinh.
Tại Hà Nội ba năm quản thúc;
Sang Rô Ma chạy chữa bệnh tình.
Nhà Hội Thánh mẹ hiền, an hòa ấp ủ;
Đức Giáo Tông cha thánh, chúc phúc an bình.
Trao nhiệm chức Hội Đồng Tòa Thánh!
Ủy thác vai Công Lý Hòa Bình.
Cả thế giới vui chào người trung nghĩa;
Khắp trần hoàn mến mộ đức hy sinh.
Thất thập cổ lai, mũ Hồng Y ngời rực!;
Thiên niên kỷ mới, đầu bạch phát khôi tinh!
Kìa bóng thỏ mờ dần khung chiều tắt;
Nọ bạch câu vèo thóang cửa phù sinh.(6)
Bảy bốn tuổi cùng trần ai sánh bước;
Năm mươi năm dậy nhân thế công bình.
Đáo kỳ viên mãn!
Bách tuế quy linh!
Xác đã mất như hạt cây vùi xuống;
Thần còn đây mầm nở sống hòan sinh.
Hoa kỳ diệu nức hương lan hòan vũ;
Trái tròn đầy thỏa ngọt khắp sinh linh.
Vọng tưởng;
Giai thành.(7)
Bùi Nghiệp
CHÚ THÍCH:
( 1) sao Cơ, sao Vĩ, Sao Khuê: các ngôi sao tượng trưng cho văn học thông thái.
(2) Xe cưu mã: từ chữ ngựa cưu xe cói, bánh xe và móng ngựa phải buộc cỏ cói vào, để người già di chuyển cho êm ái.
(3) Lan đình: loài hoa thơm nở lâu không tàn
(4) Thiên hạ thương tâm xứ, Lao Lao tống khách đình (thơ Lý Bạch) nghĩa là: Đây là nơi thương tâm trong chốn nhân gian, Tiễn khách ở đình Lao Lao. (Đình Lao Lao ở phía nam huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô ngày nay)
(5) Cận mặc giả hắc! Cận đăng giả minh!: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
(6) Bóng thỏ: ánh trăng; Bạch câu: do chữ bạch câu quá khích là bóng ngựa trắng vèo qua khe cửa. Hai chữ này ý nói thoáng qua.
(7) Giai thành: phần mộ.