Chúa nhật III Mùa Vọng: Vương quốc Tình Yêu và Tha Thứ.

Thứ năm - 09/12/2010 07:46

Đấng Mesiah.

Đấng Mesiah.
Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ mời gọi người Ki-tô hữu hãy vui lên vì đại lễ Giáng Sinh sắp đến gần rồi.

Chúa nhật III Mùa Vọng:

Vương quốc Tình Yêu và Tha Thứ

Lm Hồ Thông

Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ mời gọi người Ki-tô hữu hãy vui lên vì đại lễ Giáng Sinh sắp đến gần rồi.

Is 35: 1-10

Bài đọc I, được trích từ sách I-sai-a, mô tả trước niềm hân hoan mà những tù nhân Ba-by-lon cảm thấy khi giờ giải thoát của họ sắp gần đến. Cùng chung niềm vui với họ, thiên nhiên và hoang địa, nơi bước chân họ đi qua, sẽ tưng bừng nở hoa.

Gc 5: 7-10

Thư thánh Gia-cô-bê gởi cho các tín hữu trong thử thách trăm chiều, trong đó thánh nhân khuyên các tín hữu hãy kiên nhẫn, thậm chí hãy vui lên nữa, “vì Chúa sắp đến rồi”.

Mt 11: 2-11

Tin Mừng kể lại việc Giaon Tẩy Giả khi đang còn ở trong tù đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giê-su có phải là Đấng Mê-si-a hay không. Chúa Giê-su đáp lại bằng cách nhấn mạnh Tin Mừng được loan báo cho người nghèo hèn và người bất hạnh: người mù được thấy, người điếc được nghe, người phong hủi được chữa lành. Chúa Giê-su khai mạc vương quốc tình yêu và tha thứ.

BÀI ĐỌC I (Is 35: 1-10)

Như chúng ta đã biết, tác phẩm I-sai-a không là tác phẩm của một tác giả, nhưng công trình sưu tập ba tác phẩm của ba tác giả thuộc ba thời kỳ khác nhau: trước hết, tác phẩm thứ nhất, từ chương 1 đến chương 39, là tác phẩm của chính vị ngôn sứ I-sai-a, vị ngôn sứ tiền lưu đày vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; tiếp đó, tác phẩm thứ hai, từ chương 40 đến chương 55, là tác phẩm của một vị ngôn sứ thời lưu đày, biệt danh là ngôn sứ I-sai đệ nhị; sau cùng, tác phẩm thứ ba, từ chương 56 đến chương 66, là tác phẩm của vị ngôn sứ hậu lưu đày, biệt danh ngôn sứ I-sai-a đệ tam.

Tuy nhiên, chương 35 thì ngoại lệ: chương này thì muộn thời hơn và qua chủ đề và cung giọng của nó gần với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hơn, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, ông an ủi đồng bào của ông và loan báo cho họ cuộc giải phóng gần kề (giữa năm 550 và 540 trước Công Nguyên). Chính xác đây là chủ đề của đoạn văn mà Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta suy gẫm hôm nay. Những người lưu đày, từ hơn một nữa thế kỷ, bị giam cầm ở đất khách quê người sắp được tự do và hồi hương trở về quê cha đất tổ.

1. Những viễn cảnh diệu kỳ:

Để từ Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem, những người lưu đày sẽ phải băng qua sa mạc Sy-ri. Đức Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu thuận tiện cho cuộc xuất hành mới này, vì “sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Bài thơ là khúc hoan ca. Theo văn phong phóng dụ, đầy những hình ảnh thi vị, vị ngôn sứ mô tả sa mạc không còn là vùng đất hoang vu khô cằn nắng cháy, nhưng tưng bừng nở hoa, rợp bóng mát của những cây cối tốt tươi như rừng Li-băng, và phản chiếu vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron (đồng bằng Pha-lệ-tinh vốn nổi tiếng là phì nhiêu và nhiều hoa hồng tuyệt đẹp).

Việc hồi hương về Thành Thánh quá phấn khởi đến mức người mù sẽ thấy được, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ kêu lên trong niềm vui vỡ òa.

2. Dấu chỉ của việc Thiên Chúa thứ tha:

Trước tiên, chúng ta nhận ra chủ đề Kinh Thánh về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh con người. Mặt đất liên kết mình với niềm hoan hĩ của đoàn người hồi hương.

Ngoài ra, những tật nguyền thể lý sẽ biến mất. Chúng ta biết rằng vào thời xa xưa này – thậm chí vào thời Chúa Giê-su (Ga 9: 1-3) – những tật nguyền thể lý được xem như những án phạt của tội lỗi. Nếu những người mù thấy lại ánh sáng, người điếc nghe được và người què nhảy nhót như nai, chắc chắn đây là cách diễn tả niềm vui của những người lưu đày gặp lại quê cha đất tổ của mình, nhưng nguyên do còn sâu xa hơn: những tật nguyền của dân đã biến mất, nghĩa là, những tội lỗi của dân đã được tha thứ.

Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương: “Chính Người sẽ đến cứu chuộc anh em”. Ngài sẽ cứu chuộc dân Ngài như một người thân chuộc lại bà con họ hàng của mình lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần và đưa họ lại trở lại vào gia tộc. Theo tập tục vào thời đó, ai không thể trả nợ bị người chủ nợ bắt làm nô lệ. Người thân gần nhất đứng ra chuộc lại mà ngôn ngữ Hy bá gọi là “goèl”. Chính người này cũng chịu trách nhiệm báo thù.

Bản văn này minh họa một khái niệm căn bản của Cựu Ước: mối liên hệ giữa ý tưởng Tạo Dựng và ý tưởng Cứu Chuộc. Chính vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng có thể là Đấng Cứu Chuộc, vì sự tha thứ tội lỗi là một công trình sáng tạo mới. Ở đây, trong đoạn văn này, mối liên hệ này rất minh nhiên. Thiên Chúa sáng tạo khi biến đổi sa mạc; Thiên Chúa sáng tạo khi phục hồi những kẻ tật nguyền. Chính sự tha thứ của Ngài là nguồn mạch của cuộc sáng tạo mới này, sự tha thứ của Ngài hoàn lại sự sống.

Cảnh tù đày ở Ba-by-lon (như cảnh đời nô lệ ở bên Ai-cập) là hình ảnh về cảnh đời nô lệ của tội lỗi. Cuộc giải phóng mà vị ngôn sứ loan báo tiên trưng cuộc giải phóng triệt để hơn, vĩnh viễn hơn, đó là cuộc giải phóng mà Đức Ki-tô mang đến, “việc chuộc lại” này mà chúng ta gọi “Ơn Cứu Chuộc”, không có nghĩa gì khác hơn là “tái tạo chúng ta”. Vào những ngày gần đến lễ Giáng Sinh, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên qua nhiều thế kỷ: “Thiên Chúa đích thân ngự đến và sắp cứu chuộc chúng ta”.

BÀI ĐỌC II (Gc 5: 7-10)

Thánh Gia-cô-bê mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn. Bản văn này có chủ ý đặt vào giữa hai mẫu gương về sự nôn nóng: những người lưu đày nóng lòng được trở về quê cha đất tổ của mình (bài đọc I) và Gioan Tẩy Giả (đoạn Tin Mừng hôm nay) mong muốn rằng Đấng Mê-si-a sớm thực hiện sứ mạng “thưởng công phạt tội” của Ngài.

1. Tác giả và tác phẩm:

Bức thư này được gán cho thánh Gia-cô-bê, anh em họ của Chúa Giê-su, vị lãnh tụ cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, bị ném đá chết vào năm 62 sau Công Nguyên do sự xúi dục của vị thượng tế thời đó. Vì thế, thánh nhân không là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, con của ông An-phê và anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại ngay từ đầu thư, thánh nhân tự giới thiệu mình không là Tông Đồ, nhưng “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô”. Để phân biệt hai vị thánh trùng tên này, người ta gọi thánh Gia-cô-bê Tông Đồ là thánh Gia-cô-bê Tiền và thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giê-su, là thánh Gia-cô-bê Hậu. Chính thánh Gia-cô-bê Hậu này mà, theo thánh Phao-lô, Chúa Giê-su hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15: 6-7).

Thư này được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, phân tán khắp thế giới La-Hy. Sống ở giữa những anh em Do thái vẫn một mực trung thành lề luật Mô-sê, những người Ki tô hữu gốc Do thái này gặp phải biết bao khó khăn trong việc thực hành đức tin của mình và là đối tượng của những quấy nhiễu. Vì thế, thánh Gia-cô-bê an ủi họ ngay từ đầu thư: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1: 2-4).

2. Vị Thẩm Phán đang đứng ở ngoài cửa:

Đoạn thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào những lời khuyên bảo sau cùng: thực hành đức kiên nhẫn trong thinh lặng, đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, ngay cả những người bách hại mình; như vậy anh em “khỏi bị xét xử”, ngầm quy chiếu đến lời của Chúa Giê-su: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37). Vì Chúa sắp đến gần rồi. (Thế hệ Ki tô hữu đầu tiên đã sống trong niềm hy vọng này). “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Vào thời xưa, người ta xử án ở ngoài cổng thành. Ở đây, thánh Gia-cô-bê chuyển dời hình ảnh vào lãnh vực tinh thần và muốn nói rằng vị Thẩm Phán đang đứng ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta, Ngài sẵn sàng bước vào (x. Mt 24: 33; Mc 13: 29). Thậm chí hình ảnh này trong sách Khải Huyền không còn trong viễn cảnh của ngày chung thẩm, nhưng trong viễn cảnh của sự thân mật: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20). Chúng ta có thể nói thêm mà không sợ nói ngược lại tư tưởng của tác giả: “Hãy kiên nhẫn, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”. Chữ “kiên nhẫn”, theo nghĩa mạnh của từ, nghĩa là biết chịu đựng những gian khổ như các ngôn sứ.

3. Noi gương các ngôn sứ:

“Về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ, là những vị đã nói nhân danh Chúa”.

Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Người ta nói rằng ngôn sứ I-sai-a bị xử tử, ngôn sứ Mi-kha bị lăng nhục, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua A-kháp và vua Giô-a-kim, và cũng có thể dưới triều đại vua Ma-na-sê vô đạo.

Chúa Giê-su đã khóc thương thành Giê-ru-sa-lem: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được được sai đến cùng ngươi!” (Lc 13: 34). Trong Tin Mừng Mát-thêu, mối phúc sau cùng kết thúc với việc nêu lên các ngôn sứ: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa…Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5: 11-12).

Rõ ràng thánh Gia-cô-bê thấm nhuần giáo huấn của các Mối Phúc Thật. Phúc thay những người nghèo và những người bị bách hại, được lập đi lập lại trong thư của thánh nhân như một điệp khúc. Việc thánh nhân ám chỉ đến số phận của các ngôn sứ, dù rất ngắn, dẫn đưa chúng ta vào bản văn của Tin Mừng: thánh Gioan Tẩy Giả đã bị tống giam vào tù.

TIN MỪNG (Mt 11: 2-11)

Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị Hê-rô-đê An-ti-pát tống giam vào tù. Vị tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê này là một trong những con của vua Hê-rô-đê đại đế. Vị Tiền Hô đã cực lực tố cáo nhân vật quyền cao chức trọng này mà không một chút sợ hãi, vì vị tiểu vương này đã muốn lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh mình là Phi-líp-phê. Như vậy, thánh nhân đã chịu bạo lực như Chúa Giê-su đã loan báo cho các môn đệ Ngài (10: 16-25).

Trong tù, thánh Gioan nghe nói về những việc Chúa Giê-su làm và ông đâm lòng ngờ vực. Chính về Chúa Giê-su mà thánh Gioan đã loan báo rằng thời xét xử đã đến, lúa tốt thì thu vào kho lẫm, còn lúa xấu thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Ấy vậy, Chúa Giê-su công bố rằng mùa thu hoạch, nghĩa là ngày Thiên Chúa thưởng công báo oán, chưa đến.

1. Câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả:

Thánh Gioan là một người rất nhạy bén trước tội lỗi; ông không thể chịu đựng tội lỗi; ông đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, bất chấp hậu quả mà mình phải gánh chịu. Ấy vậy, ông nghe tường thuật rằng Đức Giê-su giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà của họ, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Vì thế, thánh nhân sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.

2. Câu trả lời của Chúa Giê-su:

Chúa Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn I-sai-a đều có hậu cảnh Mê-si-a: trước hết: Is 29: 17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; tiếp đó, Is 26: 19: người chết sống lại; sau cùng, Is 61: 1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.

Câu trích dẫn sau cùng là rõ ràng nhất, vì được đặt lại vào trong mạch văn của nó, đoạn văn này hình thành nên một sứ điệp mà Chúa Giê-su gởi cho thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, câu nói đầy đủ của I-sai-a như sau: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”. Vì thế, Chúa Giê-su đồng hóa mình với Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, tức Đấng Mê-si-a.

Còn đối với câu theo sau: “băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”, Chúa Giê-su có chủ ý không trích dẫn. Việc bỏ rơi này cũng có ý nghĩa. Gioan Tẩy Giả không thể không hiểu: thánh nhân phải đảm nhận sự thử thách của mình.

Những ám chỉ Kinh Thánh này nhắc nhở cho vị Tiền Hô rằng kỷ nguyên Mê-si-a phải được thiết lập, nhưng không bằng bạo lực mà bằng những ân phúc, Kinh Thánh đã thấy trước cách thức hành động này của Đấng Mê-si-a.

Nhiều vị thánh đã biết những giai đoạn nghi nan, tăm tối, đêm của đức tin. Hơn nữa, cuộc đời của Gioan Tẩy Giả là tiên trưng nhiều điểm về cuộc đời của Chúa Ki-tô. Thánh nhân đã cảm thấy chơ vơ cô quạnh. Thánh Thần, Đấng đã nâng đỡ thánh nhân dường như đã bỏ rơi mình.

3. Chúa Giê-su ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả:

Sau khi các môn đệ của Gioan ra đi, Chúa Giê-su ngỏ lời với đám đông; Ngài hết lời ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Giê-su ca ngợi đức công minh chính trực của thánh nhân không khuất phục trước những bạo quyền và cách sống đạm bạc của thánh nhân. Chính cung cách sống của thánh nhân làm cho ông trở thành vị ngôn sứ, tức là người nói nhân danh Thiên Chúa. Nhưng thánh nhân còn cao trọng hơn các ngôn sứ trước ông, bởi vì các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Mê-si-a, trong khi thánh Gioan không chỉ loan báo mà còn đích thân gặp gỡ Đấng Mê-si-a và chỉ cho người ta thấy Đấng Mê-si-a nữa.

Bất ngờ cung giọng thay đổi và Chúa Giê-su công bố những lời gây bối rối này: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời con cao trọng hơn ông”. Ở đây, Chúa Giê-su không nhắm đến  công đức và ơn cứu độ cho bằng hai thời kỳ và những người được dự phần vào hai thời kỳ  ấy. Thời kỳ mà Chúa Giê-su khai mạc là thời kỳ hoàn tất, vì thế trổi vượt vời vợi trên thời kỳ Cựu Ước là thời kỳ loan báo và chuẩn bị mà thánh Gioan, một trong các ngôn sứ, vẫn còn thuộc về thời kỳ Cựu Ước ấy, trong khi Tân Ước là thời kỳ thực hiện và hoàn tất. Lúc đó, phản đề nhắm đến hai trật tự vĩ đại: cái vĩ đại của Gioan Tẩy Giả được xem như ngôn sứ và vị Tiền Hô trực tiếp của Đấng Mê-si-a, và cái vĩ đại khôn sánh của những những người thuộc về thời đại của Đấng Mê-si-a, như sau này Ngài nói rõ với các môn đệ Ngài: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc, vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thạt anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13: 16-17).

Trong một bối cảnh khác, Chúa Giê-su sử dụng lập luận tương tự: trong đám đông có một phụ nữ lên tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”. Chúa Giê-su đáp lại: “Phúc thay kẻ lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Chúa Giê-su không muốn giảm thiểu sự cao cả của mẹ Ngài một chút nào, rõ ràng mẹ Ngài là khuôn mẫu của những ai lắng nghe lời Thiên Chúa, nhưng nhằm mở rộng “mối phúc này” cho hết mọi người. Ở đây cũng vậy, Chúa Giê-su không tìm cách giảm thiểu Gioan Tẩy Giả, nhưng nhằm đảm bảo với thính giả của Ngài: Nước Thiên Chúa không được dành riêng cho các đại ngôn sứ, nhưng cho hết mọi người; ai cũng đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa mà Ngài khai mạc.  

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Chú ý: Được đăng lại bài viết, nhưng vui lòng ghi rõ nguồn "Gia đình Cựu Chủng sinh Huế" và link đến bài viết trên trang này.

Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập578
  • Hôm nay91,605
  • Tháng hiện tại915,547
  • Tổng lượt truy cập57,017,184
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây