Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin: Về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người công giáo vào đời sống chính trị

Thứ bảy - 20/08/2016 00:21

-

-
Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, sau khi nhận được ý kiến của Ủy Ban Giáo Hoàng về Giáo Dân, đã quyết định rằng việc ấn hành tài liệu Ghi Chú Tín Lý về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người Công Giáo và đời sống chính trị là cần thiết.
THÁNH BỘ TÍN LÝ ĐỨC TIN
GHI CHÚ TÍN LÝ
về một số vấn đề liên quan đến việc Tham Gia của người Công Giáo
vào Đời Sống Chính Trị
 
Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, sau khi nhận được ý kiến của Ủy Ban Giáo Hoàng về Giáo Dân, đã quyết định rằng việc ấn hành tài liệu Ghi Chú Tín Lý về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người Công Giáo và đời sống chính trị là cần thiết. Ghi Chú này nhắm vào các Giám Mục của Hội Thánh Công Giáo và, một cách đặc biệt, các chính trị gia Công Giáo và tất cả các thành phần tín hữu giáo dân được mời gọi tham gia một cách trung tín vào đời sống chính trị của những xã hội dân chủ. [Để tiện cho các độc giả tham khảo, chúng tôi để nguyên các ghi chú ở cuối bài (footnotes) bằng tiếng Anh).
 
I. Một giáo huấn kiên định
 
1. Quyết tâm của các Kitô hữu trên thế gian đã tìm được những cách diễn tả khác nhau trong vòng 2000 năm qua. Một trong những cách diễn tả ấy là việc tham gia của các Kitô hữu vào đời sống chính trị: Như một tác giả thời Hội Thánh Sơ Khai đã viết, các Kitô hữu “đóng trọn vẹn vai trò của họ như những công dân.”[1] Trong số các thánh, Hội Thánh kính nhiều thánh nam nữ đã phục vụ Thiên Chúa qua việc đại lượng dấn thân vào chính trị và chính quyền. Trong số các ngài, Thánh Thomas More, là đấng được tuyên phong làm Quan Thầy các chính khách và các chính trị gia, đã làm nhân chứng bằng việc tử đạo vì “phẩm giá không thể chuyển nhượng được của lương tâm con người.”[2]Mặc dù phải chịu nhiều hình thức áp lực tâm lý khác nhau, Thánh Thomas More đã nhất quyết không chịu nhượng bộ, không bao giờ từ bỏ “lòng trung thành kiên vững với quyền bính và tổ chức hợp pháp” làm cho ngài nổi bật; ngài đã dạy bằng đời sống và cái chết của ngài rằng “không ai có thể tách rời con người không khỏi Thiên Chúa, hay chính trị khỏi luân lý.”[3]

Điều đáng ca ngợi là trong các xã hội dân chủ ngày nay, mọi người được tham gia trực tiếp vào cơ cấu chính trị trong một bầu khí tự do thật sự.[4] Những xã hội như thế mời gọi các hình thức tham gia mới và trọn vẹn vào đời sống chính trị của các công dân Kitô giáo cũng như ngoài Kitô giáo. Quả thật, tất cả mọi người đều có thể đóng góp, bằng cách bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử cho những nhà lập pháp và các viên chức chính quyền, cũng như bằng những cách khác, để phát huy những giải pháp chính trị và những chọn lựa lập pháp, mà theo ý kiến họ, sẽ có lợi cho công ích.[5] Đời sống của một nền dân chủ không thể phong phú được nếu không có sự tham gia tích cực, có trách nhiệm và quảng đại của mọi người, “dù dưới những hình thức, mức độ, công tác và nhiệm vụ đa dạng và bổ túc cho nhau.”[6]
 
Qua việc làm tròn nhiệm vụ công dân. “được hướng dẫn bởi lương tâm Kitô hữu,”[7] phù hợp với những giá trị của nó, các tín hữu giáo dân thực thi công tác riêng của mình là truyền những giá trị Kitô giáo vào trật tự trần thế, đồng thời vẫn tôn trọng bản chất và quyền tự trị chính đáng của trật tự này,[8] cùng cộng tác với những công dân khác theo khả năng chuyên môn và trách nhiệm của họ.[9] Kết quả của giáo huấn căn bản của Công Đồng Vatican II này là “các tín hữu giáo dân không bao giờ phải từ bỏ việc tham gia của họ vào ‘đời sống công cộng’, nghĩa là, trong nhiều lãnh vực kinh tế, xã hội, lập pháp, hành chính và văn hóa, nhằm mục đích cổ võ công ích một cách hữu cơ và có tổ chức.”[10] Điều này phải bao gồm việc đẩy mạnh và bảo vệ những điều tốt lành như trật tự công cộng và hoà bình, tự do và bình đẳng, tôn trọng sự sống con người và môi sinh, công bằng và đoàn kết.
 
Ghi chú này không tìm cách trình bày toàn thể giáo huấn của Hội Thánh về vấn đề này, là điều được tóm lược cách cơ bản trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, nhưng chỉ nhằm mục đích nhắc lại một số nguyên tắc phù hợp với lương tâm Kitô giáo, gợi hứng cho những tham gia xã hội và chính trị của người Công Giáo trong những xã hội dân chủ.[11] Vì sự xuất hiện của những sự mơ hồ hay quan điểm đáng nghi ngờ trong trong những thời gian gần đây, thường do những áp lực của các biến cố trên thế giới, cho nên chúng tôi cần phải làm sáng tỏ một vài yếu tố quan trọng của giáo huấn Hội Thánh trong lãnh vực này.
 
II. Những điểm chính trong nền văn hóa và những tranh luận chính trị hiện đại
 
2. Xã hội dân sự ngày nay đang trải qua một tiến trình văn hóa phức tạp đánh dấu thời điểm cuối cùng của một thời đại và sự thiếu chắc chắn đối với những gì mới mẻ đang xuất hiện ở chân trời [dịch theo bản tiếng Ý thay vì tiếng Anh]. Những thành quả vĩ đại đạt được ở thời đại chúng ta làm chứng cho những tiến bộ của con người trong việc đạt được những điều kiện sống xứng hợp hơn với nhân phẩm. Sự tăng trưởng về ý thức trách nhiệm đối với các quốc gia đang trên đường phát triển chắc chắn là một dấu hiệu quan trọng, chứng tỏ có sự nhạy cảm hơn đối với công ích. Tuy nhiên, đồng thời người ta không thể nhắm mắt trước những nguy cơ thật sự mà một số khuynh hướng trong xã hội đang cổ võ qua lập pháp, hoặc có thể coi thường những hậu quả của nó đối với các thế hệ tương lai.
 
Ngày nay có một loại thuyết tương đối về văn hóa đang xuất hiện, bằng chứng là việc khái niệm hóa và bảo vệ một thuyết đa dạng về văn hóa, là thuyết chấp nhận việc làm cho lý trý và những nguyên tắc của luật luân lý tự nhiên ra suy đồi và bị tan rã. Hơn nữa, chúng ta cũng thường nghe những ý kiến được phát biểu trong phạm vi công cộng là thuyết đa dạng về luân lý như thế chính là điều kiện cho dân chủ.[12] Hậu quả là, các công dân cho rằng mình có toàn quyền tự quyết đối với những chọn lựa luân lý của họ, và các nhà lập pháp khăng khăng cho rằng mình tôn trọng sự tự do chọn lựa bằng cách ban hành những luật lệ coi thường những nguyên tắc theo luân thường đạo lý tự nhiên và đầu hàng nền văn hoá và những xu hướng luân lý chóng tàn,[13] như là mọi quan điểm về đời sống đều có cùng một giá trị. Đồng thời, giá trị của sự khoan dung thường được nại đến một cách gian manh khi mà một số lớn công dân, kể cả những người Công Giáo, bị đòi hỏi không được đặt nền tảng cho việc đóng góp của họ vào xã hội và đời sống chính trị - qua những phương tiện lập pháp mà mọi người trong chế độ dân chủ đều có thể có – trên sự hiểu biết riêng của họ về con người và công ích. Lịch sử của thế kỷ thứ 20 chứng tỏ rằng những công dân làm đúng là những người nhận ra sự giả trá của thuyết tương đối, và cùng với nó, khái niệm là không có luật luân lý nào bắt nguồn từ bản chất con người, là điều đáng lý ra phải điều khiển sự hiểu biết của chúng ta về con người, công ích và quốc gia.
 
3. Đương nhiên là một thuyết tương đối như thế không liên quan gì đến sự tự do chân chính của những người công dân Công Giáo trong việc chọn lựa giữa những ý kiến chính trị khác nhau, là những ý kiến phù hợp với đức tin và luật luân lý tự nhiên, và để chọn lựa, theo những điều kiện riêng của họ, điều gì là tốt nhất đối với nhu cầu của công ích. Tự do chính trị không phải – và cũng không có thể - dựa trên tư tưởng tương đối cho rằng mọi quan niệm về điều tốt cho con người đều có cùng một giá trị và chân lý, nhưng ngược lại, dựa trên sự thật là chính trị liên hệ đến việc thực hiện cụ thể điều tốt lành thật cho con người và xã hội trong những hoàn cảnh lịch sử, địa dư, kinh tế, kỹ thuật và văn hóa nhất định. Từ sự riêng biệt của công tác trên tay và sự khác biệt của các hoàn cảnh, đưa đến nhiều chính sách và giải pháp khác nhau có thể chấp nhận được. Hội Thánh không có công tác phải đưa ra những giải pháp chính trị - mà lại càng không có công tác đưa ra một giải pháp duy nhất như là giải pháp có thể chấp nhận được – cho những vấn đề trần thế mà Thiên Chúa đã để cho mỗi người quyết định dựa theo sự phán đoán tự do và trách nhiệm của mình. Tuy nhiên Hội Thánh có quyền và nhiệm vụ đưa ra phán đoán luân lý về những vấn đề trần thế khi đức tin hay luật luân lý đòi hỏi điều ấy.[14] Nếu Các Kitô hữu “phải nhìn nhận sự hợp pháp của những quan điểm khác nhau về cách tổ chức những công việc trần thế,”[15] họ cũng được mời gọi để khai trừ một quan niệm đa nguyên phản ảnh thuyết tương đối về luân lý, là điều làm tổn thương đời sống dân chủ. Nền dân chủ phải được xây dựng trên trên một nền tảng chân chính và vững chắc của những nguyên tắc đạo đức không thể thương lượng được, là những nguyên tắc chống đỡ đời sống trong xã hội.
 
Về mức độ hành động chính trị cụ thể, thường thì có nhiều đảng chính trị mà người Công Giáo có thể thực thi – đặc biệt là qua nghành lập pháp - quyền lợi và nhiệm vụ của họ trong việc tham gia vào đời sống công cộng của quốc gia họ.[16] Điều này phát sinh bởi bản tính bất ngờ của một số chọn lựa về trật tự xã hội, nhiều chiến thuật khác nhau có thể để đạt được và đảm bảo cùng một giá trị căn bản, việc có thể giải thích cách khác nhau những nguyên tắc căn bản về thuyết chính trị, và sự phức tạp về kỹ thuật của nhiều vấn đề chính trị. Tuy nhiên, không được lẫn lộn với một thuyết đa nguyên mập mờ trong việc chọn lựa những nguyên tắc luân lý và những giá trị thiết yếu. Sự đa dạng hợp pháp của những chọn lựa trần thế nằm ở nguồn gốc của quyết tâm của người Công Giáo trong việc tham gia chính trị và liên hệ trực tiếp với giáo huấn Kitô về luân lý và xã hội. Chính trong ánh sáng của giáo huấn này mà tín hữu giáo dân Công Giáo phải đánh giá việc tham gia của mình và đời sống chính trị để chắc chắn rằng đời sống ấy được đánh dấu bằng một trách nhiệm chặt chẽ đối với thực tại trần thế.
 
Hội Thánh ý thức rằng trong khi dân chủ là một cách diễn tả tốt nhất của việc tham gia của các công dân vào những chọn lựa chính trị, nó chỉ thành công khi nó dựa vào một sự hiểu biết đúng đắn về con người.[17] Việc tham gia của người Công Giáo vào đời sống chính trị không thể làm tổn thương đến nguyên tắc này, nếu không thì việc làm chứng của Đức Tin Kitô trên thế gian, cũng như sự hợp nhất và kết hợp nội tâm của các tín hữu không còn tồn tại nữa. Các cơ cấu dân chủ mà trên đó quốc gia hiện đại được xây dựng sẽ rất mong manh nếu nền tảng không có trọng tâm là con người. Chính vì sự tôn trọng con người mà việc tham gia vào nền dân chủ có thể xảy ra. Như Công Đồng Vatican II dạy, việc bảo vệ “quyền của một người, quả thật, là một điều kiện cần thiết cho các công dân, cá nhân và tập thể, để đóng một phần chủ động trong đời sống và điều hành công cộng.”[18]
 
4. Hàng loạt những vấn đề phức tạp ngày nay được mọc ra ở đây, kể cả vài vấn đế mà những thế hệ trước không bao giờ phải đương đầu với. Những sự phát triển của khoa học đã đưa đến những kết quả tiến bộ làm xáo trộn lương tâm con người và đòi hỏi phải có những giải pháp tôn trọng những nguyên tắc luân lý một cách chặt chẽ và căn bản. Đồng thời, những dự luật được đưa ra trong đó không đếm xỉa gì đến hậu quả có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của những con người trong tương lai đối với việc hình thành nền văn hóa và cách xử thế trong xã hội, tấn công cả sự bất khả xâm phạm của sự sống con người. Trong hoàn cảnh khó khăn này, người Công Giáo có quyền và có nhiệm vụ phải nhắc lại cho xã hội một hiểu biết sâu xa hơn về đời sống con người và nhiệm vụ của mọi người trong vấn đề này. Tiếp nối những giáo huấn cố hữu của Hội Thánh, ĐTC Gioan Phaolô II đã nhắc lại nhiều lần rằng những ai trực tiếp liên hệ với những cơ quan lập pháp có “nhiệm vụ ngiêm trọng và rõ ràng phải chống lại” bất cứ luật lệ nào vi phạm đến sự sống của con người. Đối với họ, cũng như với tất cả mọi người Công Giáo, không thể nào cổ động cho những luật lệ ấy hoặc bỏ phiếu cho chúng.[19] Như ĐTC Gioan Phaolô II đã dạy trong Thông Điệp Evangelium vitae về trường hợp mà trong đó không thể nào lật đổ hay đẩy lui hoàn toàn một luật cho phép phá thai đang được thi hành hoặc sẽ được đưa ra bỏ phiếu, thì “một nhà dân cử, mà lập trường cá nhân tuyệt đối chống phá thai của người ấy được mọi người biết đến, có thể ủng hộ cách hợp pháp những dự luật nhằm mục đích giới hạn thiệt hại do những luật như thế gây ra và làm giảm bớt những hậu quả tiêu cực ngang hàng với tầm mức của công luận và nền luân lý của quần chúng.”[20]
 
Trong phạm vi này cũng cần phải ghi chú rằng một lương tâm Kitô hữu được đào luyện chu đáo không cho phép một người bỏ phiếu cho một chương trình chính trị hay một luật đặc biệt trái ngược với những nội dung căn bản của Đức Tin và luân lý. Đức Tin Kitô giáo là một tổng thể hợp nhất, và như thế việc cô lập hóa một vài yếu tố đặc biệt nào đó của nó là thiếu mạch lạc, và phương hại đến toàn thể tín lý Công Giáo. Một người quyết tâm theo đuổi một bình diện duy nhất riêng rẽ của học thuyết xã hội của Hội Thánh thì không làm tròn nhiệm vụ của mình đối với công ích. Người Công Giáo cũng không được nghĩ đến việc khoán trắng trách nhiệm Kitô hữu của mình cho người khác; trái lại, Tin Mừng của Chúa Giêsu trao cho người ấy một trọng trách, để chân lý về con người và thế gian được công bố và đưa đến hành động.
 
Khi hoạt động chính trị đi ngược lại những nguyên tắc luân lý là những nguyên tắc không cho phép có luật trừ, nhượng bộ hoặc hạ giá, quyết tâm của người Công Giáo trở nên rõ ràng hơn và trách nhiệm chồng chất hơn. Khi đối diện với những đòi hỏi đạo đức căn bản và không thể nhượng bộ được, các Kitô hữu phải nhận ra rằng điều đang bị lâm nguy là điều thiết yếu của luật luân lý, là luật liên quan đến toàn thể sự tốt lành của con người. Đó là trường hợp những luật lệ về phá thai vàgiết chết êm dịu (không nên lẫn lộn với việc từ chối những chữa trị đặc biệt khác thường, là điều được phép về luân lý). Những luật như thế phải bảo vệ quyền sống căn bản từ khi thụ thai đến lúc chết tự nhiên. Cũng thế, cần phải nhắc lại nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ quyền của phôi thai con người. Tương tự, cần phải bảo vệ và ủng hộ gia đình, dựa vào hôn nhân độc thê giữa một người nam và một người nữ, cùng bảo vệ sự hợp nhất và ổn định của gia đình trước luật lệ về li dị hiện đại: không thể nào đặt những hình thức chung sống khác ngang hàng với hôn nhân, hay công nhận chúng như thế theo luật pháp. Tự do của cha mẹ trong việc giáo dục con cái cũng thế; đó là một quyền không thể nhượng bộ được cũng được Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền công nhận. Cùng một cách đó, người ta phải nghĩ đến việc bảo vệ trẻ em của xã hội chống lại những hình thức nô lệ mới (thí dụ như nghiện ngập và mãi dâm). Thêm vào đó, còn có quyền tự do tôn giáo cùng việc phát triển một nền kinh tế nhằm phục vụ con người và công ích, trong đó việc tôn trọng công bằng xã hội, các nguyên tắc đoàn kết và hỗ trợ con người, theo đó “các quyền của cá nhân, gia đình, và tổ chức và việc áp dụng nó cách thực tế phải được nhìn nhận.”[21] Sau cùng là vấn đề hoà bình phải được nhắc đến. Một số nhãn quan lý tưởng về hòa bình đôi khi có khuynh hướng trần tục hóa giá trị của hòa bình, trong khi ở những trường hợp khác, có vấn đề đơn giản hoá những phán đoán về đạo đức mà quên sự phức tạp của những vấn đề liên quan. Hoà bình luôn luôn là “công việc của công lý và ảnh hưởng của đức bác ái.”[22] Nó đòi hỏi một sự tuyệt đối từ chối bạo động và khủng bố cùng đòi hỏi một quyết tâm kiên định và tỉnh thức về phiá tất cả các nhà chính trị.
 
III.  Những nguyên tắc của học thuyết Công Giáo về sự tự trị của trật tự trần thế và về thuyết đa nguyên.
 
5. Trong khi sự đa dạng của các phương pháp suy nghĩ về những cảm giác và văn hóa có thể hợp luật trong việc tiếp cận những vấn đề như thế, không một người Công Giáo nào được phép dựa vào nguyên tắc đa nguyên và tự trị của việc tín hữu giáo dân tham gia vào đời sống chính trị mà ủng hộ những chính sách ảnh hưởng đến công ích, là những chính sách làm tổn thương hoặc hạ giá những đòi hỏi căn bản về đạo đức. Tự bản chất của chúng, đây không phải là vấn đề của “những giá trị giáo điều”, bởi vì những quan niệm đạo đức như thế bắt nguồn từ chính bản chất con người và thuộc về luật luân lý tự nhiên. Chúng không bắt những người bảo vệ chúng phải tuyên xưng Đức Tin Kitô giáo, mặc dù giáo huấn Hội Thánh chứng thực và bảo vệ chúng luôn luôn và khắp nơi như là một phần của việc phục vụ chân lý về con người và công ích của xã hội của mình. Hơn nữa, không thể chối cãi rằng chính trị phải dựa trên những nguyên tắc có giá trị tuyệt đối chính vì những nguyên tắc này được dùng để phục vụ nhân phẩm và sự tiến bộ chân chính của con người.
 
6. Lời chống đỡ mà người ta thường nại vào là “quyền tự trị chính đáng trong việc tham gia của tín hữu giáo dân Công Giáo” vào chính trị cần phải được làm sáng tỏ. Việc vận động cho công ích của xã hội theo lương tâm của một người, không liên quan gì đến “chủ trương tín điều” hoặc việc thiếu khoan dung về tôn giáo. Đới với thuyết luân lý Công Giáo, trong phạm vi chính trị hay dân sự, người ta có quyền tự trị mà không lệ thuộc vào tôn giáo hay Hội Thánh – nhưng vẫn phải lệ thuộc vào luân lý – là giá trị đạt được và thừa nhận bởi Hội Thánh Công Giáo cùng thuộc về di sản của nền văn hóa hiện đại.[23] ĐTC Gioan Phaolô II đã nhiều lần cảnh cáo về những nguy cơ do việc lẫn lộn giữa phạm vi tôn giáo và chính trị gây ra. “Những trường hợp cực kỳ nghiêm trọng xảy ra khi luật của một tôn giáo đặc biệt trở thành luật của quốc gia mà không đếm xỉa gì đến việc phân biệt giữa những phạm vi thích đáng với tôn giáo và với xã hội chính trị. Trên thực hành, việc đồng hóa luật tôn giáo với dân luật không những bóp nghẹt tự do tôn giáo, mà còn có thể đi đến chỗ giới hạn hay từ chối những quyền không thể nhượng bộ được của con người.”[24] Tất cả mọi tín hữu đều ý thức rằng các sinh hoạt tôn giáo (như tuyên xưng đức tin, phụng tự, thi hành các bí tích, các tin lý thần học, sự trao đổi giữa những nhà cầm quyền tôn giáo và các thành phần của các tôn giáo) hoàn toàn ở ngoài vòng trách nhiệm của quốc gia. Quốc gia không được can thiệp, hoặc đòi hỏi hay cấm đoán những sinh hoạt này, trừ khi nó là vấn đề trật tự công cộng. Việc công nhận những quyền dân sự hay chính trị, cũng như phân phối các công việc chung không được tùy thuộc vào các xác tin hoặc các hoạt động tôn giáo của các công dân.
 
Quyền lợi và nhiệm vụ của người Công Giáo và của tất cả công dân là chân thành tìm chân lý cùng cổ động và bảo vệ, bằng những phương tiện hợp pháp, những chân lý về luân lý có ảnh hưởng đến xã hội, công lý, tự do, tôn trọng sự sống con người và các quyền khác của con người, là điều hoàn toàn khác. Sự kiện là một số những chân lý này có thể cũng được Hội Thánh dạy không làm giảm bớt tính hợp pháp về chính trị hay “quyền tự quyết” chính đáng của đóng góp của những người công dân ấy, là những người đã cam kết với chúng, bất kể vai trò của những điều tra theo lý trí hoặc việc xác nhận của Đức Tin Kitô giáo có thể có trong việc công nhận những chân lý như thế. “Sự tự trị” ấy trước hết ám chỉ thái độ của một người tôn trọng các chân lý được phát sinh từ kiến thức tự nhiên về đời sống con người trong xã hội, mặc dù những chân lý như thế cũng có thể được một tôn giáo đặc biệt nào đó dạy, bởi vì chân lý là một. Thật là một sai lầm khi lẫn lộn giữa quyền tự trị chính đáng của người Công Giáo với việc tự nhận rằng có một nguyên tắc không cần xét đến những giáo huấn về luân lý và xã hội của Hội Thánh.
 
Qua việc can thiệp vào lãnh vực này, Huấn Quyền của Hội Thánh không muốn thực thi quyền chính trị hoặc không cho người Công Giáo có quyền tự do phát biểu ý kiến về những vấn đề không ngờ trước được. Thay vào đó, Huấn Quyền có ý – theo chức năng chính đáng của mình – giáo huấn và soi sáng lương tâm của các tín hữu, đặc biệt là những người tham gia vào đời sống chính trị, ngõ hầu những hành động của họ luôn phục vụ toàn bộ việc ủng hộ con người và công ích. Học thuyết xã hội của Hội Thánh không phải là một việc xâm phạm vào việc cai trị của từng quốc gia. Nó là vấn đề nhiệm vụ của người giáo dân Công Giáo phải mạch lạc về luân lý, được tìm thấy trong lương tâm một người, duy nhất và không thể phân chia được. “Không thể có hai đời sống hiện hữu song song với nhau: một đời sống gọi là ‘đời sống tâm linh’ với những giá trị và đòi hỏi của nó; và đằng khác có một đời sống gọi là đời sống ‘thế tục’, nghĩa là đời sống trong gia đình, ở sở làm, ở các trách nhiệm xã hội, ở các trách nhiệm trong đời sống công cộng và văn hóa. Cái cành được tháp vào cây nho là Đức Kitô, sinh hoa trái trong mọi lãnh vực của sự hiện hữu và hoạt động. Thực ra, trong tất cả mọi lãnh vực của đời sống người tín hữu giáo dân, dù có khác nhau thế nào đi nữa, cũng đi vào chương trình của Thiên Chúa, là Đấng muốn rằng chính những lãnh vực này phải là ‘những nơi đúng kỳ hạn’ là nơi mà tình yêu của Đức Kitô được tỏ lộ và thể hiện để vừa vinh danh Chúa Cha vừa phục vụ tha nhân. Mọi hoạt động, mọi hoàn cảnh, mọi nhiệm vụ chính xác – thí dụ như là, tài năng và sự đoàn kết trong công việc, tình yêu và sự tân tâm trong gia đình và việc giáo dục con cái, việc phục vụ xã hội và đời sống công cộng cùng việc quảng bá chân lý trong lãnh vực văn hóa – là những dịp mà Chúa Quan Phòng đã định liệu để ‘tiếp tục thực hành Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến’ (Apostolicam actuositatem, 4)”[25] Sống và hành động theo lương tâm của mình trong những vấn đề chính trị không phải là việc chấp cách mù quáng những lập trường xa lạ với chính trị hoặc một loại chủ nghĩa tín điều, nhưng trái lại là một cách mà trong đó các Kitô hữu đóng góp một cách cụ thể để rồi, qua đời sống chính trị, xã hội sẽ trở nên công bình hơn và phù hợp hơn với phẩm giá của con người.
 
Trong những xã hội dân chủ, tất cả mọi dự luật đều được thảo luận và xem xét tự do. Những người, dựa trên căn bản là tôn trọng lương tâm cá nhân, coi trách nhiệm luân lý của các Kitô hữu phải hành động theo lương tâm như một dữ kiện để cho rằng họ không đủ tư cách tham gia vào đời sống chính trị, hành vi chối từ sự hợp pháp của việc tham gia chính trị của họ vì họ làm theo những xác tín của họ về công ích, là mắc tội dưới dạng thiếu khoan dung theo thuyết thế tục. Lập trường như thế chẳng những chỉ tìm cách không cho Kitô giáo tham gia vào đời sống công cộng hay chính trị, mà còn có thể nhắm đến cả luân thường đạo lý tự nhiên. Trong trường hợp đó, một con đường sẽ được mở ra cho những xáo trộn về luân lý, tức là chẳng còn gì khác nữa mà chỉ còn chủ thuyết đa nguyên là hợp pháp. Hậu quả đương nhiên sẽ là việc kẻ mạnh hà hiếp người yếu. Hơn nữa việc loại Kitô giáo ra ngoài lề sẽ không báo trước một điềm hay cho tương lai của xã hội hoặc cho sự đồng tâm giữa các dân tộc; thật ra, nó sẽ đe dọa chính nền tảng tinh thần và văn hóa của nền văn minh.[26]
 
IV. Những điều đáng lưu ý về những bình diện đặc biệt
 
7. Trong những năm gần đây, đã có những trường hợp trong một số tổ chức được thành lập trên những nguyên tắc Công Giáo, mà trong đó họ đã ủng hộ những động lực chính trị hay phong trào có lập trường trái ngược với giáo huấn về luân lý và xã hội của Hội Thánh trên những vấn đề đạo đức căn bản. Các hoạt động như thế là đối nghịch với những nguyên tắc căn bản của lương tâm Kitô giáo, cũng không phù hợp với thành phần trong những tổ chức hoặc những đoàn thể tự coi mình là Công Giáo. Tương tự, một số báo chí Công Giáo trong một số quốc gia đã diễn đạt những quan điểm về chọn lựa chính trị mù mờ hoặc sai lầm, qua việc giải thích sai lạc tư tưởng tự trị về chính trị mà các người Công Giáo được hưởng mà không đếm xỉa gì đến những nguyên tắc được nhắc đến ở trên.
 
Đức Tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14:6), mời gọi các Kitô hữu cố gắng nhiều hơn nữa để xây dựng một nền văn hóa, được gợi hứng bởi Tin Mừng. Một nền văn hóa sẽ phục hồi các giá trị và nội dung của Truyền Thống Công Giáo. Việc trình bày hoa quả của gia sản tinh thần, trí thức và luân lý của đạo Công Giáo bằng những ngôn từ dễ hiểu đối với nền văn hóa thời đại là một công tác rất khẩn thiết ngày nay, cũng là để tránh một loại lưu vong văn hóa Công Giáo. Hơn nữa, những thành quả văn hóa và kinh nghiệm trưởng thành của những người Công Giáo trong đời sống chính trị trong một vài quốc gia, đặc biệt là từ Thế Chiến Thứ Hai, không cho phép những ‘tự ti mặc cảm’ trong việc so sánh với những chương trình chính trị mà lịch sử gần đây đã chứng tỏ là yếu đuối và hoàn toàn tai hại. Nghĩ rằng quyết tâm của người Công Giáo trong xã hội chỉ giới hạn trong việc biến đổi các cơ cấu mà thôi thì chưa đủ và quá hạn hẹp, bởi vì nếu ở mức độ căn bản không có nền văn hóa đủ khả năng lãnh nhận, chứng minh và đưa ra thực hành những chủ trương được khai triển từ Đức Tin và luân lý, thì những thay đổi này luôn được xây dựng trên một nền tảng không vững chắc.
 
Đức Tin Kitô giáo chưa bao giờ được coi là áp đặt một khung cứng ngắt trên những vấn đề xã hội và chính trị, ý thức rằng bình diện lịch sử đòi buộc con người phải sống trong những hoàn cảnh không hoàn hảo, và cũng dễ thay đổi nhanh chóng. Vì lý do đó mà các Kitô hữu phải gạt đi những lập trường và hoạt động chính trị được cảm hứng bởi nhãn quan không tưởng (utopia), là nhãn quan biến truyền thống của Đức Tin vào Thánh Kinh thành một loại nhãn quan tiên tri mà không có Thiên Chúa, sử dụng sai lầm tôn giáo bằng cách hướng lương tâm về một hy vọng chỉ thuần túy thế tục và vô hiệu hóa hoặc giải thích lại cố gắng tìm về đời sống vĩnh cửu của các Kitô hữu.
 
Đồng thời, Hội Thánh dạy rằng không có tự do chân chính nếu không có chân lý. “Chân lý và tự do hoặc tay trong tay đồng hành với nhau hoặc chúng sẽ cùng nhau hư mất trong đau thương.”[27]Trong một xã hội mà trong đó người ta không nói đến chân lý mà cũng không đi tìm chân lý, mọi hình thức thực thi tự do chân chính đều bị yếu đi, mở đường cho những méo mó phóng đãng và theo cá nhân chủ nghĩa, cùng ngấm ngầm phá hủy việc bảo vệ những điều tốt lành của con người và toàn thể xã hội.
 
8. Về mặt này, thật có ích khi nhắc lại một chân lý mà ngày nay người ta thường không nhận thức được hoặc hình thành đúng trong dư luận quần chúng: quyền tự do lương tâm và, một cách đặc biệt, quyền tự do tôn giáo, được dạy trong Tuyên Ngôn Dignitatis humanae của Công Đồng Vaticanô II, được dựa trên phẩm giá của con người theo bản thể học chứ không phải một sự bình đẳng không tưởng giữa các hệ thống tôn giáo hay văn hóa do con người tạo ra.[28] Khi suy tư về vấn đề này, ĐTC Phaolô VI đã dạy rằng “Công Đồng không đời nào dựa quyền tự do tôn giáo này trên sự thể là tất cả các tôn giáo và mọi giáo huấn, kể cả những giáo huấn sai lầm, đều nhiều hay ít có giá trị ngang nhau; nhưng dựa vào phẩm giá của con người, là điều đòi hỏi rằng người ấy không bị lệ thuộc vào những giới hạn bên ngoài là điều có khuynh hướng chèn ép lương tâm trong việc tìm kiếm tôn giáo chân chính hoặc gắn bó với nó.”[29] Cho nên giáo huấn về tự do lương tâm và tự do tôn giáo không trái với việc tín lý Công Giáo kết án chủ thuyết trung lập và chủ nghĩa tương đối về tôn giáo;[30] ngược lại, nó hoàn toàn phù hợp với việc kết án này.
 
V. Kết luận
 
9. Những nguyên tắc trong Ghi Chú này nhằm mục đích chiếu sáng trên một trong những bình diện quan trọng nhất của sự thống nhất của đời sống Kitô hữu: là việc gắn bó giữa Đức Tin và đời sống, giữa Tin Mừng và văn hóa, như Công Đồng Vaticanô II đã nhắc lại. Công Đồng đã khuyến khích các Kitô hữu “trung thành chu toàn các nhiệm vụ trần thế thế của họ trong tinh thần của Tin Mừng. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng, bởi vì chúng ta không có một thành vĩnh cửu ở đây, nhưng đang tìm một thành sắp đến, chúng ta có thể xao lãng các bổn phận trần thế của mình; như thế là quên rằng chính đức tin buộc phải chu toàn các bổn phận đó cách hoàn hảo hơn tùy theo ơn gọi của mỗi người... Chớ gì các Kitô hữu.. . hãnh diện vì có dịp thực thi các hoạt động trần thế một cách đặc biệt là liên kết thành một tổng thể các cố gắng nhân loại, gia đình, nghề nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn giáo, và dưới sự điều hướng tối cao của các giá trị tôn giáo này, mọi sự được qui hướng về vinh danh Thiên Chúa.”[31]
 
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong buổi Triều Yết ngày 22 tháng 11, năm 2002, đã phê chuẩn Ghi Chú này, được công nhận trong Buổi Họp Thường Niên của Thánh Bộ này, và ra lệnh phát hành.
 
Roma, từ Văn Phòng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, ngày 24 tháng 11, năm 2002, Ngày Đại Lễ Kính Đức Kitô Vua.
 
+ ĐHY Giuse J. Ratzinger
Bộ Trưởng

[1] Letter to Diognetus, 5,5; Cf. Catechism of the Catholic Church, No. 2240.
[2] John Paul II, Apostolic Letter Motu Proprio Proclaiming Saint Thomas More Patron of Statesmen and Politicians, 1: AAS 93 (2001), 76.
[3] Ibid., 4.
[4] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 31; Catechism of the Catholic Church, No. 1915.
[5] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.
[6] John Paul II, Apostolic Exhortation, Christifideles laici, 42: AAS 81 (1989), 472. The present doctrinal Note refers to the involvement in political life of lay members of the faithful. The Bishops of the Church have the right and the duty to set out the moral principles relating to the social order; «Nevertheless active participation in political parties is reserved to the lay faithful» (ibid., 60). Cf. Congregation for the Clergy, Directory for the Ministry and Life of Priests (March 31, 1994), 33.
[7] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.
[8] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 36.
[9] Cf. Second Vatican Council, Decree Apostolicam actuositatem, 7; Dogmatic Constitution Lumen gentium, 36; Pastoral ConstitutionGaudium et spes, 31 and 43.
[10] John Paul II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 42.
[11] In the last two centuries, the Papal Magisterium has spoken on the principal questions regarding the social and political order. Cf. Leo XIII, Encyclical Letter Diuturnum illudASS 14 (1881–1882), 4 ff; Encyclical Letter Immortale DeiASS 18 (1885–1886), 162ff; Encyclical Letter Libertas præstantissimumASS 20 (1887–1888), 593ff; Encyclical Letter Rerum novarumASS 23 (1890–1891), 643ff; Benedict XV, Encyclical Letter Pacem Dei munus pulcherrimumAAS 12 (1920), 209ff; Pius XI, Encyclical Letter Quadragesimo anno:AAS 23 (1931), 190ff; Encyclical Letter Mit brennender SorgeAAS 29 (1937), 145–167; Encyclical Letter Divini RedemptorisAAS 29 (1937), 78ff; Pius XII, Encyclical Letter Summi PontificatusAAS 31 (1939), 423ff; Radiomessaggi natalizi 1941–1944; John XXIII, Encyclical Letter Mater et magistraAAS 53 (1961), 401–464; Encyclical Letter Pacem in terrisAAS 55 (1963), 257–304; Paul VI, Encyclical Letter Populorum progressioAAS 59 (1967), 257–299; Apostolic Letter Octogesima adveniensAAS 63 (1971), 401–441. 
[12] Cf. John Paul II, Encyclical Letter Centesimus annus, 46: AAS 83 (1991); Encyclical Letter Veritatis splendor, 101: AAS 85 (1993), 1212–1213; Discourse to the Italian Parliament, 5: L’Osservatore Romano ( November 15, 2002 ).
[13] Cf. John Paul II, Encyclical Letter Evangelium vitae, 22: AAS 87 (1995), 425–426. 
[14] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.
[15] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.
[16] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 43 and 75.
[17] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 25.
[18] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 73.
[19] Cf. John Paul II, Encyclical Letter Evangelium vitae, 73.
[20] Ibid.
[21] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.
[22] Catechism of the Catholic Church,No. 2304. 
[23] Cf. Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.
[24] John Paul II, Message for the 1991 World Day of Peace: «If you want peace, respect the conscience of every person», 4: AAS 83 (1991), 414–415.
[25] John Paul II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 59.
[26] Cf. John Paul II, Address to the Diplomatic Corps accredited to the Holy SeeL’Osservatore Romano ( January 11, 2002 ).
[27] John Paul II, Encyclical Letter Fides et ratio, 90: AAS 91 (1999), 75.
[28] Cf. Second Vatican Council, Declaration Dignitatis humanae, 1: «This Sacred Council begins by professing that God himself has made known to the human race how men by serving him can be saved and reach the state of the blessed. We believe that this one true religion subsists in the Catholic and Apostolic Church ». This does not lessen the sincere respect that the Church has for the various religious traditions, recognizing in them «elements of truth and goodness». See also, Second Vatican Council, Dogmatic ConstitutionLumen gentium, 16; Decree Ad gentes, 11; Declaration Nostra aetate, 2; John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris missio, 55: AAS 83 (1991), 302–304; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration Dominus Iesus, 2, 8, 21: AAS 92 (2000), 742–765.
[29] Paul VI, Address to the Sacred College and to the Roman Prelature: in Insegnamenti di Paolo VI, 14 (1976), 1088–1089.
[30] Cf. Pius IX, Encyclical Letter Quanta curaASS 3 (1867), 162; Leo XIII, Encyclical Letter Immortale DeiASS 18 (1885), 170–171; Pius XI, Encyclical Letter Quas primasAAS 17 (1925), 604–605; Catechism of the Catholic Church, No. 2108; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration Dominus Iesus, 22.
[31] Second Vatican Council, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 43; see also John Paul II, Apostolic Exhortation Christifideles laici,59.
 

Tác giả: Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

Nguồn tin: vietcatholic.org

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập543
  • Hôm nay76,431
  • Tháng hiện tại897,090
  • Tổng lượt truy cập56,998,727
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây