Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Giải thích Lời Chúa

Thứ ba - 08/11/2016 09:21

-

-
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng là những chứng nhân cho “Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, ...
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

 
Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kính 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, thì đa số là giáo dân. Thánh I-nê Đê là một phụ nữ chân quê, thánh Tô-ma Thiện là một chủng sinh còn trẻ. Thánh Âu-tinh Nguyễn văn Mới là một nông dân. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài khẳng khái làm chứng cho Tin Mừng Đức Ki-tô. Các thánh đã bền vững đến cùng trong lòng tin vào Chúa, nêu gương sáng cho cháu con hôm nay.
 
Kn 3: 1-9
 
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy” như ước nguyện của Chúa Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12: 49).
 
1Cr 1: 17-25
 
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng là những chứng nhân cho “Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.
 
Mt 10: 17-22
 
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Các ngài không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị án tử trên thập giá. Thầy và trò, Chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”.
 
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
 
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan là một khúc quanh quan trọng. Chúng kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ. Vấn đề thưởng phạt thường hằng được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào.
 
1. Vấn đề thưởng phạt:
 
Trong lịch sử dài nầy, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Những người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Quan niệm về thưởng phạt ngay từ cõi đời nầy phát xuất từ một niềm tin quá bi quan và yếm thế về cuộc sống mai hậu. Tất cả mọi người, công chính hay ác nhân, khi từ giả cõi đời nầy đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
 
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trông thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế nầy. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 BC) xao xuyến nêu lên vấn đề họa vô đơn chí giáng xuống trên người công chính. Quả thật, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với những kẻ ác tâm ở bên kia nấm mồ. Các Thánh vịnh công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển trước Thánh Nhan Chúa muôn đời (Tv 16, 17, 49, 73).
 
Tiếp đó, niềm tin vào sự sống lại của những vong nhân vào ngày phán xét bắt đầu ló dạng. Vào thời An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê bách hại khủng khiếp dân Do thái ở Pa-lét-tin, những người tử đạo chết trong khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống mai hậu (2Mcb 7: 1-38).
 
Tác giả sách Khôn Ngoan còn đi xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin vào sự bất tử của linh hồn của người Hy lạp như một sự củng cố cho niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu vẫn còn tiềm tàng hay rụt rè của người Do thái. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp nầy không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bỉ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
 
2. Quan niệm sai lầm về con người.
 
Tác giả phác họa quan niệm duy vật về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng. Khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như mây khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật nầy, không có chỗ nào được dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
 
Tác giả viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho những đồng bào của mình, họ đang bị cám dỗ bởi những sức hấp dẫn của nền văn minh ngoại giáo chung quanh. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa ngôi vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật nầy, tác giả mô tả quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
 
3. Quan niệm đích thật về con người.
 
Ở trung tâm tiến trình lập luận của mình, tác giả đặt mặc khải thiết yếu nhất liên quan đến con người: “Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23) như chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa làm ra con người theo hình ảnh Ngài, giống như Ngài” (St 1: 26). Vì thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử. Từ đó, tác giả khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa; họ đang hưởng an bình”.
 
Tất cả những khai triển nầy mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết học của Pla-ton. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất tử ở trong một thân xác hủy hoại theo Nhị Nguyên Thuyết Hy lạp, nhưng là nephesh, “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
 
Từ nay, vấn đề về sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách nhằm tôi luyện cuộc đời của các tôi trung của Thiên Chúa thành “của lễ toàn thiêu” như “lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
 
4. Vinh quang chung cuộc.
 
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy”. “Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ Kinh Thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như trong những lời trăn trối sau cùng của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài. Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung. Những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo. Chính trong chiều hướng nầy mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng diễn ngữ tương tự để xác định chỗ của các môn đệ Ngài trong Nước Trời: “Khi Con Người ngự trên ngai vinh hiển của Ngài, các anh cũng vậy, những người đã theo Thầy, ngự trên mười hai ngai tòa để xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”.
 
5. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm.
 
Niềm hy vọng lớn lao nầy được đặt để vào tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính trong tình yêu, ân phúc và từ tâm nầy mà những người công chính sống. “Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật, và những ai trung thành thì được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân huệ, và thương xót những ai được Người tuyển chọn”. Lời kết thúc của Bài Đọc I nầy được viết một thế kỷ trước các Tin Mừng, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một sự duy nhất của Mặc Khải Cựu và Tân Ước.
 
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
 
Bài đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, được cấu trúc rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân.
 
Xin nhắc lại ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, tạo nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy nầy, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử nầy không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
 
1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21):
 
Đáp lại những kẻ tự phụ mình “thông thái”, thánh nhân nhắc nhở rằng ngài đã rao giảng cho họ không phải bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với đòi hỏi điềm thiêng dấu lạ của người Do thái và tìm kiếm lẽ khôn ngoan của người Hy lạp.
 
Dân Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Dân Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được. Đó là điều mà tất cả mọi hệ thống triết học đều đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá được.
 
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại nầy. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ nhục trên thập giá. Ở An-ti-ô-ki-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái nầy bách hại.
 
Còn đối với dân Hy lạp và sự khôn ngoan của họ, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Ngài cố gắng thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một Con Người, một Con Người bị đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó lòng mà thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào được sánh ví với hình ảnh của một thần linh.
 
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25).
 
Nhưng Thập Giá không là một bài diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện lạ thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
 
Trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn với mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh hình ảnh duy nhất về “Đức Kitô chịu đóng đinh”.
 
TIN MỪNG (Mt 10: 17-22)
 
Mặc dầu đoạn Tin Mừng được dành cho ngày đại lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được trích từ Mt 10: 17-22, nhưng để hiểu sâu xa đoạn Tin Mừng nầy chúng ta sẽ đặt nó vào trong phân đoạn trọn vẹn của nó, nghĩa là từ câu 17 cho đến câu 25 (10: 17-25). Theo mạch văn của Tin Mừng Mát-thêu, phân đoạn thứ hai về những huấn thị bách hại (10: 17-25) phân biệt rõ nét với phân đoạn thứ nhất về những huấn thị truyền giáo (10: 1-16).
 
Phân đoạn thứ nhất nêu bật chủ đề uy quyền hay quyền năng phi thường mà Đức Giê-su ban cho những ai mà Ngài sai đi loan báo Nước Trời. Trong phân đoạn nầy, không có bất kỳ ám chỉ chính xác nào về đau khổ. Thật ra, đoạn văn 10: 13b-16 ám chỉ đến việc người đời có thể không tiếp đón các môn đệ (10: 13b-15) và cảnh báo rồi những nguy hiểm đang rình rập chờ đón họ: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (10: 16). Tuy nhiên, những đối kháng nầy vẫn mơ hồ và một bấu khí chiến thắng xem ra phải ngự trị trên hoạt động truyền giáo.
 
Khởi đi từ câu 10: 17, những huấn thị được đặt trên một dấu nhấn hoàn toàn khác: những cuộc bách hại sắp đến. Các môn đệ không chỉ bị thù ghét, nhưng những thử thách sắp tới của họ được mô tả một cách chính xác đến nỗi chúng ta có thể định vị môi trường của chúng nữa. Chúng ta có thể phân chia phân đoạn thứ hai nầy thành : cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ cần phải có trong hoàn cảnh bách hại (10: 23) và phần kết luận (10: 24-25) cho toàn bộ phân đoạn thứ hai này (10: 17-25).
 
1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21).
 
Phần mở đầu của câu 17: “Hãy coi chừng người đời” lặp lại chủ đề về sự cẩn trọng của câu 16 nhưng với những ngôn từ hoàn toàn khác. Động từ “coi chừng” mặc lấy hai nét nghĩa: hoặc bác bỏ, từ chối điều gì đó (như 7: 15; 16: 6) hay đề phòng cảnh giác trong hoàn cảnh khó khăn nào đó (như 6: 1). Văn mạch nhấn mạnh đến nét nghĩa thứ hai: Đức Giê-su không khuyên các môn đệ của Ngài nên trốn chạy khỏi “người đời” nhưng trong những gặp gỡ của họ với người đời, nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Họ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời nầy tìm cách khai trừ, loại bỏ. Phần tiếp theo của câu 17 cho thấy rằng “người đời” nầy không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ”.
 
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong nhưng cũng vừa ở bên ngoài xứ Pa-lét-tin. Trong xứ Pa-lét-tin, họ có thể bị bắt và bị điệu ra trước mặt vua chúa (dòng dõi Hê-rô-đê) quan quyền (chính quyền chiếm đóng Rô-ma) hoặc ngoài xứ Pa-lét-tin, bởi các giới cầm quyền dân ngoại. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Kitô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực nầy có một ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội làm chứng cho Đức Kitô và Nước Trời. Lời chứng nầy nêu bật tính chất vừa công chúng vừa chính trị nữa. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.
 
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Chính vì làm chứng cho Thầy mình mà họ không cần phải lo nghĩ phải nói gì, vì trong giờ đó Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thần Khí để giúp họ như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12).
 
Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến cho nghĩ đến một sự gợi hứng máy móc loại bỏ tất cả sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế; trái lại hai cụm từ “anh em”“trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ nầy được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng còn ở trong họ và bởi họ nữa.
 
2. Cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22)
 
Song đối với các câu 10: 17-20 ở trên, các câu 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa.
 
Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết để tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
 
3. Thái độ trong hoàn cảnh bách hại (23).
 
Câu 23 diễn tả thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại. Người Kitô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành nầy, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành nầy xua đuổi họ đi thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng vẫn phải là bổn phận cho đến cùng.
 
4. Phần kết luận (10: 24-25).
 
Hai câu 24-25 là phần kết luận của phân đoạn nầy. Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị án tử trên thập giá. Thầy và trò, Chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ nầy không giới thiệu một sự so sánh nhưng là căn tính về vận mệnh trần thế giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẻ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho môn đệ của mình sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Trời đã đến gần (10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Trời nầy (10: 18).
 
Đề nghị bài giảng về CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
 
Con số 117 vị tử đạo đại diện cho hằng trăm hàng vạn người Ki-tô giáo đã chết để giữ trọn tấm lòng sắc son của mình với Đạo cũng đủ cho thấy con đường khai sinh và phát triển của Ki tô giáo ở trên đất nước Việt nam thật muôn vàn gian khổ. Quả thật, trong suốt gần ba trăm năm, Kitô giáo bị liệt vào hàng tà đạo, được coi là nguy hiểm cho quốc gia, cho thuần phong mỹ tục, những người theo đạo Kitô bị ngược đãi, bắt bớ, tù đày, và bị xử trảm. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, hai từ theo đạo chẳng hề hứa hẹn điều gì tốt đẹp, nhưng rõ ràng phải đối mặt với trăm chiều gian nan khốn khó. 
 
Vậy chuyện ông bà chúng ta chấp nhận theo Đạo, sống Đạo và sẵn sàng chết vì Đạo, phải phát xuất từ một tấm lòng thật sự đã được Đạo cảm hóa sâu xa nhất đạt, đến một tình yêu cao vời nhất. Đọc lại lịch sử cuộc đời của các ngài, thật đa dạng, tuy nhiên tất cả đều có chung những đức tính sau đây: lương thiện, hiền lành chất phát, cần cù chăm chỉ làm ăn, gắn bó với mảnh đất ông bà tổ tiên, yêu mến những giá trị cao đẹp của nền văn hóa dân tộc, biết ân cần chắt chiu từng kỷ niệm, trân trọng từng chút ân tình của tình làng nghĩa xóm.
 
Trong đời sống xã hội, dù ở địa vị hay chức vụ nào, họ là những người thanh liêm chính trực, có lòng nhân ái với hết mọi người không kể là lương hay giáo. Như chuyện thánh Giu-se Phạm Trọng Tả, Chánh Tổng (1800-1859). Lúc nghe ngài bị bắt và điệu lên tỉnh giam, nhiều người kể cả lương dân đều khóc thương Ngài, như lời của ông Đoàn Vĩnh, người làng bên cạnh: Thời thế khó khăn quá! Cụ Chánh Phạm Trọng Tả là người tốt lành, yêu thương dân làng, không phân biệt lương giáo, làm gì nên tội mà bắt cụ như thế. Khi thánh nhân bị điệu ra công đường để xét xử, Quan Tổng Đốc nói : Ông làm việc đã lâu. Tôi biết ông là người tốt, ngay thẳng, liêm khiết nhất là có lòng thương người. Tôi biết rất rõ về ông. Tôi không muốn làm án hại ông. Bây giờ ông dẹp bỏ tự ái, dẹp bỏ lòng tin nhẹ dạ của ông, vâng lệnh vua, bước qua thập giá, chúng tôi sẽ tha cho ông về và còn trọng thưởng cho ông nữa để dân chúng trong tổng của ông vui mừng. Tôi biết họ rất quý ông. Thánh nhân khẳng khái đáp : Bẩm các quan, tôi hết lòng cảm tạ về những lời lẽ mà quan lớn vừa nói với tôi. Tôi biết và hiểu như thế. Nhưng tôi không tự ái, không nhẹ dạ như quan nói. Tôi xác tín theo đạo. Bây giờ dù phải mất hết mọi sự ở trần gian nầy thì tôi cũng xin vui lòng chấp nhận kể cả sự chết; còn việc bước qua thập giá theo lệnh vua, thì nhất định tôi không thể chiều theo ý vua và các quan lớn được. Nếu phải chết, tôi cũng vui lòng chết vì đạo.
 
Trong đời sống gia đình, họ là những ông bà cha mẹ gương mẫu, là những dâu hiền con thảo, là những vợ chồng yêu thương nương tựa đùm bọc nhau. Họ cũng ước mơ một cuộc sống thanh bình dưới mái nhà tranh ấm cúng ẩn mình sau lủy tre làng, vào buổi chiều êm ả nghe những tiếng chuông nhà thờ ngân nga thả nhịp. Như chuyện bà Lý Mỹ đút tiền cho viên cai ngục để lén vào gặp ông Lý Mỹ, chồng mình. Bà bồng con nhỏ mới sinh được mấy tháng trao cho chồng ẵm một lúc. Nhìn thấy chồng tiều tụy máu me đầy quần áo thì quá xúc động, nước mắt đầm đìa, bà nghẹn ngào nói: Mình ạ ! Vợ chồng ai mà chẳng thương, nhưng tất cả vì Chúa, mình hãy can đảm lên nhé. Em và các con hằng ngày cầu nguyện cho mình can đảm chịu mọi hình khổ vì Chúa. Mình đừng bận tâm về mẹ con em. Chúa quan phòng mọi sự. Em dâng phó mình và cả gia đình cho Chúa…Có lẽ đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau ở thế gian nầy. Chúng ta sẽ xum họp cả gia đình trên Thiên đàng vậy. Nghe những lời vợ nói, lòng ông Lý Mỹ đau đớn như cắt nhưng ông cũng cố bình tĩnh nói với vợ: Những lời em khuyên như đốt thêm ngọn lửa mến Chúa trong lòng anh. Em hãy về dạy dỗ các con thay anh. Anh phó thác mọi sự của gia đình ta cho Chúa. Anh xin Chúa cho gia đình sẽ có ngày họp mặt đông đủ trên Thiên Đàng
 
Xin đừng hiểu đức tính anh hùng của họ như những người coi nhẹ cái chết, mong ước được phúc tử đạo như phương thế giải thoát khỏi cõi trần tục hệ lụy nầy. Như bao nhiêu người khác, họ cũng yêu mến cuộc đời, thích được sống, sống dài lâu với những người thân yêu của mình. Họ cũng run sợ khi bị bách hại, bị bắt bớ, bị tù đày, bị ngược đãi, bị giết chết, và vì thế họ tìm cách trốn tránh, nhưng khi không thể nào tránh được, họ thanh thản đón nhận cái chết không phản kháng, không nổi loạn. Như câu chuyện về thánh linh mục Đa Minh Vũ Đình Tước. Có lần một giáo dân, ông Đa Minh Đoài, đã hỏi cha: Nếu người ta bắt cha thì cha sẽ xử trí ra sao?. Cha trả lời: Nếu có thể thì chạy trốn, còn không thể trốn nữa thì xin vâng theo ý Chúa. Điều cha lo lắng là làm thế nào để những ngươì cho cha trú ẩn không phải liên lụy vì cha, nếu cha bị bắt.
 
Ngay cả khi phải chết vì Đạo, họ vẫn giữ được nét cao cả của Đức Ái: không một lời oán trách, trái lại cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, hành hạ và giết chết mình, như lời cầu nguyện của thánh Phê-rô Lê Tùy trước khi bị xử trảm: Lạy Cha là Chúa Trời đất, con xưng tụng Cha đã dựng nên con có hồn có xác. Giờ phút nầy con xin dâng lên Cha cả hồn lẫn xác của con để nói cho mọi người hiện diện nơi đây là con tin thật Chúa là Cha của con, của mọi người. Xin Cha chúc lành cho những người nầy và xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.
 
Dòng máu anh hùng của các ngài đã viết lên trang sử đầy nghiệt ngã mà cũng thật vẻ vang, như hai câu thơ ghi trên mộ của thánh An-tôn Nguyễn Hữu Quỳnh : Nghĩa khí nêu cao trên đất nước. Oai linh phù hộ khắp non sông. Ngày hôm nay con cháu của các vị được thừa hưởng một cơ đồ hiển hách với con số các vị Hiển Thánh Tử Đạo lớn lao. Niềm tin Ki-tô giáo mà chúng ta được thừa kế từ ông bà tổ tiên của chúng ta là một niềm tin vàng ròng vì đã được tôi luyện trong lửa thử thách và đã được đón nhận như của lễ toàn thiêu, như lời cầu nguyện của cha Phan trước cái chết anh dũng của chú Tô-ma Thiện : Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã cho con được gặp vị chứng nhân anh hùng tí hon này. Xin Chúa chấp nhận chúng con như của lễ dâng lên Chúa để cầu nguyện cho việc truyền giáo lớn mạnh trên mảnh đất Việt nam thân yêu nầy.
 
Xin mượn lời của thánh Âu-gút-ti-nô để nói về Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó đã phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Ki-tô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa”.
 
Chúng ta là những con cháu của các ngài, là những người được mang dòng máu tử đạo của các ngài. Xin cho mỗi người chúng ta sống xứng đáng với niềm tin mà các ngài đã ân cần trao gởi cho chúng ta bằng những nỗi gian truân và giá máu tử đạo của các ngài để trọn một tấm lòng trung hiếu đối với Thiên Chúa và trọn một tấm lòng yêu thương anh chị em mình, dù trong hoàn cảnh khó khăn nào. Đó cũng là bày tỏ lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài, các bậc ông bà tổ tiên của chúng ta trong niềm tin bất khả chuyển lay.

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập598
  • Hôm nay91,605
  • Tháng hiện tại932,601
  • Tổng lượt truy cập57,034,238
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây