Thứ Tư Lễ Tro & Chúa Nhật 1 Mùa Chay B. Giải thích Lời Chúa

Thứ hai - 16/02/2015 11:12

-

-
Vào Thứ Tư Lễ Tro nầy, ngưỡng cửa Mùa Chay, Phụng Vụ Lời Chúa nhằm nhắc nhở chúng ta ý nghĩa của thời gian cầu nguyện, sám hối và đức ái như chuẩn bị tâm hồn tiếp đón mầu nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm tha thứ và ban sự sống.
THỨ TƯ LỄ TRO

 

      Vào Thứ Tư Lễ Tro nầy, ngưỡng cửa Mùa Chay, Phụng Vụ Lời Chúa nhằm nhắc nhở chúng ta ý nghĩa của thời gian cầu nguyện, sám hối và đức ái như chuẩn bị tâm hồn tiếp đón mầu nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm tha thứ và ban sự sống.

 

      Ge 2: 12-18

 

      Bài đọc I được trích từ sách Giô-en, vị ngôn sứ kêu gọi hoán cải trong thời kỳ tai ương hoạn nạn. Vị ngôn sứ cho thấy quyền năng của việc cầu nguyện, sám hối và nhất là hoán cải tận đáy lòng như thế nào để đạt được ơn tha thứ của Thiên Chúa.

 

      2Cr 5: 20-6: 2

 

      Trong thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu hãy làm hòa với Thiên Chúa nhờ, bởi và trong Đức Ki tô; nhờ đó họ có thể thay đổi cuộc sống.

 

      Mt 6: 1-6, 16-18

 

      Tin Mừng Mát-thêu ghi lại giáo huấn của Đức Giê-su liên quan đến việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay, những hành vi mà chúng ta phải chu toàn đừng bận lòng về những xét đoán của người đời, nhưng chỉ dưới cái nhìn của Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo.

 

      BÀI ĐỌC I (Ge 2: 12-18)

 

      Ngôn sứ Giô-en kêu gọi toàn thể dân chúng Giu-đa hãy sám hối và nguyện cầu: hãy ra sức khẩn nài Thiên Chúa và xin ơn tha thứ, vì hai tai họa đã giáng xuống trên quê hương: một năm hạn hán gây tang tóc và nạn châu chấu hoành hành. Thậm chí người ta không còn mang hiến lễ hằng ngày đến Đền Thờ vì không còn dầu, rượu, bột (Ge 1: 4-12, 16-20; 2: 2-11).

 

      Không thể định vị biến cố về phương diện lịch sử, vì chúng ta không biết ngôn sứ Giô-en đã sống vào thời đại nào: có thể vào cuối thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên, trước cuộc lưu đày Ba-by-lon, hay có thể đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, sau cuộc lưu đày. Mặt khác, vị ngôn sứ đưa ra hai thiên tai mà ông miêu tả như một ví dụ điển hình cơn thịnh nộ của Đức Chúa vào ngày Chung Thẩm.

 

      1. Sám Hối:

 

      Ngôn sứ kêu mời hãy hết lòng trở về với Chúa kèm theo những cử chỉ sám hối: ăn chay, khóc lóc, thống thiết than van, xé áo, những cử chỉ này gợi ra những nghi thức tang chế và diễn tả những tâm tình buồn phiền của con người trước tội lỗi của mình; ăn chay hổ trợ lời cầu nguyện và cũng diễn tả thái độ khiêm hạ. Nhưng ông không nhấn mạnh những cử chỉ nầy. Điều cốt thiết là “thay lòng đổi dạ”: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng”.

 

      Hết lòng trở về với Thiên Chúa không phải thực hiện trong nỗi xao xuyến nhưng trong niềm tin tưởng. Thiên Chúa tỏ mình ra “nhân hậu và từ bi, chậm giận và giàu tình thương” như Thiên Chúa tự định nghĩa về mình trước Mô-sê (Xh 34: 6). Với lời cầu nguyện chân thành, “biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại mà hối tiếc vì đã giáng họa”.

 

      2. Hiệp nhau cầu nguyện:

 

      Trước những tai ương, toàn dân, dù các cụ già, thiếu nhi, hay trẻ thơ, tân lang hay tân nương, hãy hiệp nhau mà khẩn khoản van nài Thiên Chúa.

 

      Tân lang được nêu lên ở đây vì Luật cho phép họ miễn trừ mọi công tác và nghĩa vụ quân sự trong cộng đoàn một năm: “Khi một người đàn ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi lính, và người ta sẽ không bắt làm công tác nào; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà một năm , và sẽ là niềm vui cho người vợ mới cưới” (Đnl 24: 5). Nhưng trong trường hợp nầy, tất cả quyền ưu tiên phải nhường chỗ cho sự liên đới và hiệp thông trong lời cầu nguyện.

 

      Còn các tư tế phải khóc than và nguyện cầu “giữa tiền đình và tế đàn”. Tế đàn ở đây là bàn thờ dâng hiến lễ toàn thiêu được định vị ở sân trong của Đền Thờ, được gọi “sân Tư Tế”. Khi người ta đến đây qua hàng hiên phía tây, người ta ở trong tiền sảnh, đối diện với bàn thờ dâng hiến lễ toàn thiêu, và qua đó, đối mặt với chính thánh điện mà người ta hướng lời cầu nguyện về. Chính ở nơi tiền sảnh này mà ngôn sứ Giô-en đặt các tư tế Đền Thờ trong tư thế cầu nguyện.

 

      Chính vì việc hoán cải tận đáy lòng và những lời khẩn nguyện chân thành mà Thiên Chúa đã đáp trả (ngôn sứ gợi lên sau đó tai ương chấm dứt, sự phồn vinh trở lại và mưa xuống trên các đồng cỏ, vân vân).

 

      BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 20-6: 2).

 

      Thánh Phao-lô với tư cách “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô” cũng kêu gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy hoán cải.

 

1. Hoàn cảnh:

 

      Chúng ta biết rằng trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô nầy, thánh nhân phác họa một bức tranh về Sứ Vụ Tông Đồ, có tầm mức cao cả và phần thưởng dành cho nó. Theo cách nầy, ngài trả lời cho các tín hữu Cô-rin-tô, những người đã tìm cách coi thường lời rao giảng của ngài và đàm tiếu về tước vị Tông Đồ của ngài.

 

      Thánh Phao-lô vặn lại. Thánh nhân biết rất rõ ngài chỉ là khí cụ của Thiên Chúa, chỉ là người trung gian, nhưng người trung gian đã được Thiên Chúa ủy quyền với tư cách là “sứ giả thay mặt Đức Ki tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy”. Xa hơn một chút, thánh nhân tự định nghĩa về mình là “cộng tác viên của Thiên Chúa”.

 

      Một trong những sứ vụ Tông Đồ được giao phó cho ngài mà thánh nhân gọi là “thừa tác viên của sự hòa giải”. Từ ngữ “hòa giải” không được dùng thông thường trong các thư của thánh nhân, nhưng lại tóm gọn thành quả hy tế của Đức Ki tô: hòa giải con người với Thiên Chúa. Thánh nhân sẽ khai triển hai khía cạnh cốt yếu của sự hòa giải: Hòa giải là sáng kiến của Thiên Chúa và có giá trị tức thời.

 

      2. Sáng kiến của Thiên Chúa.

 

      “Nhân danh Đức Ki tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa”. Qua cách diễn tả nầy, thánh Phao-lô cho hiểu rằng hòa giải đến từ sáng kiến của Thiên Chúa, ân ban nầy đứng hàng đầu và nhưng không, Thiên Chúa phải trả một giá rất đắc, bởi vì Đức Ki tô, “Đấng chẳng biết tội là gì, Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”.

 

      Nhưng lời van xin chúng ta “hãy làm hòa với Thiên Chúa” nầy không hàm chứa một thái độ thụ động. Thánh nhân thường nói ở nơi khác: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki tô” (Rm 6: 11; Cl 2: 13, Ep 2: 3-4, vân vân). Nếu chúng ta đã đón nhận ân ban nầy (nhờ phép Rửa Tội), phải làm cho ân sủng mà chúng ta nhận được đâm bông kết trái.

 

      3. Giá trị tức thời:

 

      Thành quả của việc hòa giải với Thiên Chúa nhờ Đức Ki tô mặc khải rằng ngày cứu độ đã đến. Thánh Phao-lô trích dẫn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi cho những người lưu đày ở Ba-by-lon để loan báo cho họ giờ giải thoát sắp đến gần:

 

      “Ta sẽ nhận lời ngươi vào thời ta thi ân,

      phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ” (Is 49: 8).

 

      Thánh nhân đặt lời trích dẫn nầy vào thời hiện tại: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ”, bởi vì sấm ngôn đã được ứng nghiệm. Diễn ngữ “ngày Ta cứu độ” mang ý nghĩa kinh thánh: “thời đại”. Thời đại nầy được hiểu giữa biến cố Phục Sinh và ngày Quang Lâm của Đức Giê-su, tức thời chung cuộc, thời mà cuộc hoán cải của muôn dân sẽ được thực hiện. Nhưng đối với mỗi người Ki tô hữu, cuộc hoán cải không được trì hoản: chính bây giờ là lúc thuận tiện, bây giờ là lúc phải tận dụng thời gian ngắn ngũi nầy để thánh hóa bản thân mình.

 

      TIN MỪNG (Mt 6: 1-6, 16-18)

 

      Đoạn trích Tin Mừng nầy thuộc phần thứ hai của bài diễn từ trên núi. Đức Giê-su vừa thiết lập một sự song đối giữa những giới luật Mô-sê và những đòi hỏi mới mà Ngài đề xuất: “Anh em đã nghe Luật dạy…Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Ngài đặt dấu nhấn trên việc nội tâm hóa luật luân lý. Ở đây, Ngài đan cử những ví dụ rất thích đáng và đối lập hai thái độ; vì thế, Ngài chọn ba việc thiện của Do thái giáo: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.

 

      1. Bố thí:

 

      Huấn thị bố thí được ghi trong Lề Luật: “Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy vì việc đó, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ chức phúc cho anh emtrong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện. Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em” (Đnl 15: 7-11). Huấn thị nầy chiếm một chỗ quan trọng trong văn chương kinh sư. Các sách minh triết cũng thường ca ngợi nó. Nhờ Tin Mừng Gioan mà chúng ta biết rằng Đức Giê-su, dù nghèo, cũng đã thực thi bố thí một cách kín đáo (Ga 13: 29). Bố thí không phải là một cử chỉ phô trương cho thiên hạ thấy, bởi vì Thiên Chúa là “Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”.

 

      2. Cầu nguyện:

 

      Đối với việc cầu nguyện, Đức Giê-su căn dặn cũng theo một cách thức như vậy: “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh em”. Đức Giê-su đã nêu gương. Các tác giả Tin Mừng, đặc biệt thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta rằng Đức Giê-su thường tách riêng một mình để cầu nguyện “trong nơi vắng vẽ”, “trên núi cao cô tịch”, vào lúc đêm xuống.

 

      Đức Giê-su không dị nghị với việc cầu nguyện cộng đoàn, huống chi lời cầu nguyện phụng vụ. Rõ ràng Ngài không bao giờ công bố bất cứ lời nào chống lại hội đường; Ngài đã tham dự phụng tự hội đường, ở đó Ngài đã ngỏ lời; chính Ngài, Ngài đã công khai cầu nguyện trước các môn đệ và trước đám đông. Nhưng việc cầu nguyện mà Ngài lên án là đạo đức giả, chính là cầu nguyện cốt nhằm cho thiên hạ thấy mà ngợi khen mình. Cầu nguyện là đi vào trong mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa, Đấng ngự trong cõi thâm sâu của lòng bạn.

 

      3. Ăn chay:

 

      Luật Mô-sê chỉ đòi buộc một ngày ăn chay đó là ngày lễ Xá tội. Nhưng cũng có những ăn chay tùy ý, ăn chay tùy hoàn cảnh và ăn chay vì lòng đạo đức. Người Biệt phái ăn chay vì lòng đạo đức vào ngày thứ hai và thứ năm.

 

      Đức Giê-su đòi hỏi một sự biện phân tinh tế trong việc thực hành ăn chay. Khi ăn chay, đừng làm ra vẻ gì là mình ăn chay để không ai thấy là anh ăn chay ngoài trừ “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”. Đây là bài học về lòng khiêm hạ và tôn trọng sự thật. Hành vi tôn giáo có thể không đạt được mục đích nếu ý hướng sai lầm.

 

      Nhưng điều Đức Giê-su đặc biệt muốn mặc khải, được lập lại đến ba lần như điệp khúc, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi thâm sâu nhất của con người. Đây là tôn giáo “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật” mà Đức Giê-su đã mặc khải cho người phụ nữ Sa-ma-ri.

 

 

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY

 

      Vào Chúa Nhật I Mùa Chay năm B này, bài đọc I và bài đọc II đều gợi lên hình bóng Phép Rửa, tức là cuộc vượt qua từ cõi chết để bước vào cõi sống.

 

      St 9: 8-15

 

      Đoạn trích sách Sáng Thế gợi lên một nhân loại mới được cứu thoát khỏi trận Đại Hồng Thủy. Thiên Chúa lập giao ước với nhân loại mới nầy qua ông Nô-ê và các con của ông.

 

      1Pr 3: 18-22

 

      Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô muốn những người lãnh nhận Phép Rửa hiểu rằng việc vượt qua nước là dấu chỉ của việc họ tham dự vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô và đó cũng là dấn thân vào giao ước với Thiên Chúa.

 

      Mc 1: 12-15

 

      Tin Mừng Mác-cô tường thuật rất ngắn gọn cuộc thử thách mà Đức Giê-su đã kinh qua trong hoang địa: Ngài chiến thắng các chước cám dỗ, tức thế lực của sự Ác.

 

      BÀI ĐỌC I (St 9: 8-15)

 

      Chữ “Ước”, được dùng trong thuật ngữ “Cựu Ước và Tân Ước” để chỉ bộ Kinh Thánh, được dịch từ nguyên ngữ Hy-lạp sang tiếng La-tin: “Testamentum”, có nghĩa là “Giao Ước”. Vì thế, thuật ngữ “Cựu Ước và Tân Ước” phải được hiểu trọn nghĩa là “Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới”.

 

      Quả thật, chữ “Giao Ước” tóm gọn tinh thần của toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là, những mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Ấy vậy, có một chỗ đứt đoạn giữa công việc của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và thi ân, và cách hành xử của con người, tội nhân; nhưng chỗ đứt đoạn nầy về phương diện lịch sử được lòng xót thương của Thiên Chúa chắp lại: sau vài án phạt điển hình, Thiên Chúa tha thứ và tái lập giao ước với nhân loại.

 

      1. Giao Ước với ông Nô-ê:

 

      Đây là Giao Ước mà Thiên Chúa đã thiết lập sau trận Đại Hồng Thủy như án phạt của Thiên Chúa trên khắp toàn cõi địa cầu. Giao Ước với hai ông bà nguyên tổ, A-đam và E-và, được thiết lập cách mặc nhiên; Giao Ước với ông Nô-ê được thiết lập cách minh nhiên. Qua ông Nô-ê và hậu duệ của ông, Thiên Chúa giao ước với toàn thể nhân loại.

 

      Chiều kích hoàn vũ của Giao Ước với ông Nô-ê nầy càng đáng chú ý hơn đối với những giao ước sau nầy. Thật vậy, Giao Ước với tổ phụ Áp-ra-ham cũng như Giao Ước với ông Mô-sê bị thu hẹp, chỉ còn liên quan đến một dân tộc được tuyển chọn giữa muôn dân (thực ra, dân Chúa chọn nầy có sứ mạng chuẩn bị ơn cứu độ cho hết mọi người).

 

      Mặt khác, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa ban cho cuộc sáng tạo một khởi điểm mới, một nhân loại mới lại bắt đầu. Ông Nô-ê là một người công chính, như A-đam trước đây đã là người công chính khi xuất ra từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, đây đích thật là một công trình sáng tạo mới.

 

      2. Ơn cứu độ phổ quát dưới dấu chỉ của nước:

 

      Tác giả soạn thảo chuyện tích trận Đại Hồng Thủy nầy dựa trên những truyền thống xưa và những dữ kiện huyền thoại. Phải nói có hai chuyện tích về trận Đại Hồng Thủy được đan quyện vào nhau. Một chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít không biết đến đề tài Giao Ước và một chuyện tích khác muộn thời hơn thuộc truyền thống tư tế (có lẽ trong thời kỳ lưu đày hay sau đó ít lâu) nêu bật đề tài Giao Ước.

 

Bài đọc I được trích từ chuyện tích thuộc truyền thống tư tế nầy, trong đó chúng ta gặp thấy đề tài Giao Ước. Tác giả của chuyện tích này khoác cho chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít một quan niệm thần học. Khi phân biệt giáo huấn của Thiên Chúa ở trong chuyện tích thuộc truyền thống Gia-vít, tác giả tư tế đã đọc thấy dấu chỉ của ơn cứu độ được dâng hiến cho hết mọi người, ở đó nước sẽ đóng một vai trò quan trọng: “Nếu toàn thể nhân loại đã bị trừng phạt, thì cũng chính toàn thể nhân loại sẽ được cứu, vì lòng xót thương của Thiên Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi nữa”. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện dưới dấu chỉ của nước, biểu tượng của cuộc tái sinh. Thánh Phê-rô, trong thư mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy, gợi lên ở nơi chuyện tích này hình bóng Phép Rửa.

 

      3. Giao ước với tất cả mọi sinh vật:

 

      Giao Ước của Thiên Chúa trải rộng cho hết mọi sinh vật. “Cử chỉ này là một hành vi sáng tạo” trong “các chuyện tích về các nguồn gốc” (St ch. 1-11). Nô-ê, A-đam mới, cũng như những sinh vật đều đã được cứu thoát, từ nay được đảm bảo tồn. Thiên Chúa không từ bỏ bất cứ gì từ cuộc sáng tạo ban đầu.

 

      Chúng ta có thể nhấn mạnh thêm rằng đại họa Hồng Thủy đã đến hồi kết thúc, nước phía trên đã được phân rẽ khỏi nước phía dưới, và đất trồi lên, như trong cuộc sáng tạo đầu tiên. Mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, Phép Rửa sẽ có ý nghĩa của một cuộc vượt qua từ cõi chết bước vào cõi sống.

 

      4. Cầu vồng:

 

      Dân Hy-lạp xem cầu vồng là khăn quàng của nữ thần Iris, sứ giả của các thần linh. Dân Do thái đặt trọng tâm trên vấn đề về những mối quan hệ giữa trời và đất, vì thế thấy ở đây một dấu chỉ của việc Thiên Chúa giao hòa với nhân loại. Chiếc cầu vồng nối liền trời với đất biểu thị chiều kích phổ quát của Giao Ước, một lời giải thích mang đậm nét thi ca về lời hứa của Thiên Chúa. Từ nay, Thiên Chúa “gác cây cung lên mây”, tức là không còn dùng khí cụ tiêu diệt nữa. Việc cầu vòng xuất hiện trên không trung loan báo điềm lành: cơn mưa đã tạnh.

 

      BÀI ĐỌC II (1Pr 3: 18-22)

 

      Đoạn trích thư nầy vang dội bài đọc I, nhắc lại trận Đại Hồng Thủy và Giao Ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Nô-ê. Thánh Phê-rô nêu bật hình bóng Phép Rửa.

 

1. Hoàn cảnh:

 

      Thư thứ nhất của thánh Phê-rô nầy được viết ở Rô-ma vào những năm 60-64 (thánh nhân được phúc tử đạo vào năm 64). Thư được gởi đến cho tất cả Ki-tô hữu bị phân tán khắp miền Tiểu Á vì bị quấy nhiễu hay bị bách hại. Vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm đến đàn chiên của mình. Bức thư của thánh nhân nhắc nhớ những chân lý cốt yếu của đức tin.

 

      Bức thư nầy đã được một cộng tác viên của thánh Phê-rô là ông Xin-va-nô biên soạn: “Nhờ tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em…” (5: 12). Ông này cũng là người bạn đồng hành thân tín của thánh Phao-lô. Có lẽ vì thế mà những dấu ấn của thánh Phao-lô được gặp thấy ở nhiều đoạn trong thư nầy; như trong đoạn trích hôm nay, chúng ta ghi nhận “chết vì tội lỗi chúng ta”, hay việc đối lập giữa “thân xác và thần khí”, hoặc “Phép Rửa” đồng nghĩa với việc “tham dự vào cuộc Phục Sinh của Đức Ki tô”.

 

      Thánh Phê-rô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu đang phải hứng chịu những lời chế nhạo và vu khống của dân ngoại. Thánh Tông Đồ khuyên họ hãy can đảm theo gương Đức Ki-tô, Ngài đã chịu đau khổ dù vô tội. Từ đó, thánh nhân gợi lên ơn Cứu Chuộc và những ân phúc của nó đối với những người đã qua đời cũng như những người đang sống.

 

      2. Đối với những người đã qua đời:

 

      Đây là một đoạn văn đặc thù trong các bản văn Tân Ước gợi lên Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông.

      Việc Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông muốn nói lên rằng việc cứu chuộc những tội nhân không chỉ có giá trị đối với những ai đã qua đời sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, nhưng cũng có hiệu quả trở về trước nữa. Đức Ki-tô đã đến “loan báo Tin Mừng” cho các vong nhân, và đặc biệt hơn nữa, cho những vong nhân bị quên lãng và bị nguyền rủa, thậm chí vào thời ông Nô-ê và con cái của ông là những người công chính duy nhất. Những vong nhân nầy xuất hiện trong truyền thống Do thái (và đặc biệt trong văn chương khải huyền) như những kẻ nổi loạn. Chắc chắn đó là lý do mà thánh Phê-rô viện dẫn họ để ca ngợi quyền năng của ơn Cứu Chuộc và lòng xót thương vô lượng hải hà của Thiên Chúa.

 

      Mặt khác, việc Đức Giê-su xuống cõi âm ty nêu bật giá trị của việc Ngài lên trời trong vinh quang. Đấng xuống cõi âm ty chính là Đấng “ngự bên hữu Chúa Thiên Chúa, bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền Ngài”. Vinh quang tuyệt mức tương ứng với sự khiêm hạ tột cùng của Con Thiên Chúa, Đấng đã dự phần vào cõi hư vô của sự chết.

 

      3. Đối với những người đang sống:

 

       Đối với những ai hiện đang sống (và đối với những ai sinh ra sau nầy), biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô dâng hiến ơn cứu độ dưới dấu chỉ Phép Rửa. Thánh Tông Đồ nhấn mạnh rằng không cốt thanh tẩy những vết nhơ thể xác như trong các nghi thức thanh tẩy của lương dân, nhưng nhất là một tâm hồn thanh sạch.

 

      Cùng với những bản văn trước đó của thánh Phao-lô, bản văn nầy làm chứng rằng “vào những năm 60, thần học Phép Rửa đã được bày tỏ và khẳng định rất rõ nét”.

 

      TIN MỪNG (Mc 1: 12-15).

 

      Đoạn trích Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất (1: 12-13) tường thuật công việc chuẩn bị cần thiết của Đức Giê-su cho sứ vụ công khai của Ngài; phần thứ hai (1: 14-15) tường thuật bước khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài.

 

      I. Công việc chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai (1: 12-13):

 

      Tin Mừng Mác-cô thuật lại cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa. Bản trình thuật dù quá giản dị nhưng những điều cốt yếu đều được nói ở đây: Thánh Thần thúc đẩy, bốn mươi ngày trong hoang địa, chịu Sa-tan cám dỗ, việc Đức Giê-su chiến thắng sự Dữ được gợi ra một cách giản dị bởi dấu chỉ địa đàng: “sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ Người”.

 

      Trong giai đoạn này của cuộc đời Chúa Giê-su, thiết tưởng phải phân biệt hai khía cạnh: rút vào hoang địa, chịu Sa-tan thử thách.

 

      1. Rút vào hoang địa:

 

      Ngay sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả và trước khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su rút vào hoang địa. Ngài chuẩn bị sứ vụ của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh. Trước khi khai mạc công trình cứu độ cho chúng ta, trước khi khởi sự cuộc đời của một nhà giảng thuyết lưu động, khiêm hạ và hoàn toàn tuân phục mọi hướng dẫn của Chúa Cha, Đức Giê-su sống trong sự mật thiết với Cha Ngài và trang bị cho mình sức mạnh Thánh Thần.

 

Về phương diện nhân loại, Đức Giê-su chắc hẳn đã kinh qua nỗi sợ hãi và xao xuyến, bởi lẽ Ngài đã gánh lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Ngài đặt mình vào trong sự liên đới với những âu lo của chúng ta. Ngài tăng cường lời cầu nguyện của mình bằng chay tịnh như cách thức huấn luyện mình để “làm chủ bản thân mình”, đồng thời như một hành vi “phụ thuộc vào Thiên Chúa”.

 

      Vào những giây phút mang tính quyết định, Đức Giê-su nhiều lần rút vào nơi cô tịch để cầu nguyện. Ngài đã cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các Tông Đồ của mình. Ngài đã cầu nguyện lâu giờ trước khi hỏi các môn đệ Ngài là ai và đón nhận lời tuyên xưng đức tin của Phê-rô. Ngài cũng đã thức suốt đêm cầu nguyện trước khi nói về Bánh Ban Sự Sống và công bố rằng bánh mà Ngài ban chính là Mình Ngài làm của ăn thức uống để nuôi sống chúng ta.

 

      2. Chịu Sa-tan thử thách:

 

      Nhưng tại sao Đức Giê-su phải chịu Sa-tan thử thách? Xin được đưa ra ba lý do để soi sáng vấn đề nầy.

 

      2.1-Chấp nhận thân phận con người:

 

      Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ nằm trong sự hợp lý về ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi bằng cách chấp nhận phép rửa sám hối bởi Gioan Tẩy Giả. Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa nầy khi chấp nhận chịu những cơn cám dỗ như số phận của con cái A-đam và E-và. Qua kinh nghiệm của mình, Ngài chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng những chước cám dỗ. Và chính nhờ mẫu gương của Ngài, chúng ta, được ơn phù trợ của Thánh Thần như Ngài, có thể lập lại lời khẩn cầu mà Ngài đã dạy: “Lạy Cha…xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…”.

 

      2.2-Kinh qua những cơn cám dỗ của Dân Chúa:

 

      Nếu Đức Giê-su là một A-đam mới, một A-đam khải hoàn, thì Ngài cũng là một Mô-sê mới. Đức Giê-su đã muốn đồng hóa mình với dân Ngài bằng cách sống lại những cơn cám dỗ của họ trong hoang địa. Ngài đã biết cuộc lưu đày ở Ai-cập khi vừa mới chào đời. Ngài cũng đã kinh qua những chước cám dỗ trong hoang địa. Bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của Ngài nhắc nhớ không chỉ bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trước khi đón nhận những lời Giao Ước, nhưng cũng bốn mươi năm truân chuyên mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa.

 

      2.3-Khúc dạo đầu cho cuộc chiến thắng tối hậu:

 

      Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những dấu chỉ. Cuộc thử thách trong hoang địa là một trong những dấu chỉ lớn lao. Đây là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến vĩ đại chống lại quyền lực sự Dữ. Về phía mình, Sa-tan đã tiên cảm một đối thủ đáng gờm; nó sẽ tăng gấp bội nổ lực của mình, sẽ gây ra những phản bội và bỏ rơi, và bên ngoài có vẽ chiến thắng vào ngày thứ sáu Thương Khó của Ngài…

 

      II. Bước khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 14-15):

 

      Tiếp đó, thánh Mác-cô nêu lên việc ông Gioan Tẩy Giả “bị nộp” vào lúc Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ của Ngài ở miền Ga-li-lê.

 

      1. Bối cảnh:

 

      Khi nghe tin ông Gioan “bị nộp”, Đức Giê-su cho rằng cần phải cẩn trọng hơn nên Ngài rời bỏ miền Giu-đê trở lại miền Ga-li-lê. Giờ Ngài chưa đến để đón nhận số phận tương tự như ông Gioan.

 

      Ấy vậy, vua Hê-rô-đê An-ti-pa, người đã ra lệnh bắt giam Gioan Tẩy Giả, đang cai trị xứ Ga-li-lê. Vì thế, xem ra Đức Giê-su muốn lánh xa Giê-ru-sa-lem, lánh xa trung tâm quyền lực Do thái giáo. Quả thật, Tin Mừng Gioan viết: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp nhiều môn đệ hơn ông Gioan…Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê” (Ga 4: 1-3).

 

      2. Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su.

 

      Vào thời đó, miền Ga-li-lê là “ngã tư quốc tế”, vì các đoàn quân ngoại quốc và các đoàn thương nhân đều phải qua lại ở nơi nầy. Từ lâu miền Ga-li-lê này được mệnh danh là “miền đất của dân ngoại” (Is 8: 28) vì ở đây dân Do thái không chỉ sống chung với dân ngoại nhưng còn là nơi giao tiếp với muôn dân. Vì thế, khi định vị sứ vụ đầu tiên của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh rằng sấm ngôn về ơn cứu độ phổ quát của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9: 1).

 

      Tiếng nói của vị Tiền Hô không còn vang lên nữa. Sứ mạng của ông là dọn đường cho Tin Mừng đã đến hồi kết thúc. Từ đây chính Đấng là hiện thân Tin Mừng xuất đầu lộ diện. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su bắt đầu sự vụ của mình ở Ga-li-lê với lời công bố tương tự như lời công bố của Gioan Tẩy Giả, nhưng có một điểm khác biệt cốt yếu, sứ điệp không còn hướng đến tương lai, nhưng nhấn mạnh hiện tại: “Thời kỳ đã mãn”.

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập605
  • Hôm nay91,605
  • Tháng hiện tại941,788
  • Tổng lượt truy cập57,043,425
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây