Cựu Chủng Sinh Huế

http://www.cuucshuehn.net


Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng. ĐHY PX Nguyễn Văn Thuận [9]

Này, người lữ khách hôm nay thân mến! Nơi đây không cống hiến cho con những lời khuyên lơn răn bảo, cũng không thay con suy ngắm. Nhưng đây chỉ là những kinh nghiệm sống của các bậc Thánh và các người Thánh, "Những người lữ hành trên đường hy vọng". Họ có thật và họ sống thật!

26- Dấn Thân

1. Dấn thân vì người nghèo

* Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu nghĩa dấn thân sâu hơn: "Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công. (ÐHV 605).

* Con người chỉ giống hình ảnh Chúa khi hiến mình liên lỉ, như mỗi Ngôi trong Thiên Chúa là: Hoàn toàn hiến dâng, Hoàn toàn tương quan, Hoàn toàn yêu thương. (ÐHV 606).

* Sống đức tin, con sẽ nhìn với đôi mắt Chúa Giêsu, con sẽ thấy kích thước đời đời trong các biến cố (ÐHV 628).

Như chúng ta đã biết, ngày nay trên thế giới, hầu hết mọi người đều nghe tiếng và hết lòng khâm phục mến yêu mẹ Têrêxa thành Calcutta. Từ thuở thiếu thời, bà đã quen sống trong nếp sống văn minh vật chất, đầy đủ tiện nghi; nhưng trước lời mời gọi thầm kín và mãnh liệt của Chúa bà đã đi đến một quyết định thật táo bạo: từ bỏ tất cả, lột xác toàn diện để dấn thân theo Chúa.

Sau khi đã suy nghĩ và cầu nguyện, Têrêxa rời bỏ quê hương, trẩy sang Ấn Ðộ, một nước đông dân vào bậc nhất thế giới và cũng là quốc gia có từng triệu người chết đói hàng năm. Tại đây, Têrêxa ra sức tìm hiểu tập tục, học hỏi ngôn ngữ xứ Ấn Ðộ, và sau một thời gian ngắn, bà nhập tịch trở thành một người dân Ấn Ðộ thực sự. Rồi suốt những tháng năm sống trong bức tường của Tu viện, ngày ngày đôi mắt Têrêxa vẫn chọc thủng bức tường để nhìn ra xã hội bên ngoài: bà đã chứng kiến tận mắt hàng trăm người chết đói, hàng ngàn kẻ hấp hối nằm lăn lóc trên các ngã đường của đô thị. Dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa Thánh Thần và được ngọn lửa tình yêu thúc đẩy, bà đã mạnh dạn xin phép bề trên rời bỏ tu viện để ra sống giữa khu xóm lao động nghèo nàn: ăn mặc như người nghèo, lao động vất vả như người nghèo, hoàn toàn giống như mọi người để làm chứng nhân đích thực cho đức ái trọn hảo.

Và đức bác ái thì truyền nhiễm. Gương sáng của Têrêxa đã thu hút được nhiều thiếu nữ Ấn độ. Vì thế, sau một thời gian thử luyện, bà đã thành lập một dòng cho các chị em muốn theo lý tưởng sống khó nghèo và phục vụ giai cấp nghèo. Ngày nay dòng của mẹ Têrêxa mọc lên tại nhiều nơi trên thế giới.

Chứng tích khiêm nhường âm thầm và bác ái sinh động của mẹ Têrêxa đã lôi cuốn được hầu hết người dân xứ Ấn. Cửa nhà của mẹ luôn luôn mở rộng để đón tiếp mọi người. Ai đến đấy cũng tìm được bầu khí của Tin Mừng, của yêu thương thực sự, và chính bầu khí ấy là nguồn bình an, hy vọng làm thỏa mãn cơn khát của lòng họ.

Nghe đến tên mẹ, khắp nơi trên thế giới đều cảm phục mến yêu. Có nhiều nước đã ngỏ lời mời mẹ đến diễn thuyết. Nhưng một phụ nữ nghèo hèn, chẳng chuyên môn một khoa nào cả thì biết nói gì đây? Mẹ Têrêxa chỉ nói lên những lời được rút ra từ quả tim của mẹ, những lời của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu dấn thân thí mạng sống mình vì kẻ mình yêu. Bởi thế, tuy đơn sơ và dịu dàng, nhưng lời lẽ của mẹ Têrêxa đã là những mũi tên xuyên thâu và nung đốt tâm hồn mọi người.

2. Thí mạng cho người hủi Việt Nam

* Khi con giúp kẻ khác quên bản thân để hiến mình, con giúp họ làm hình ảnh Chúa hiện tỏ nơi họ (ÐHV 608).

* Chính lúc hiến mình, con tập biết hiến mình. Vì nói hiến mình dễ, thực sự hiến mình khó; giảng khuyên hiến mình dài, tình nguyện hiến mình ngắn, hô hào hiến mình đông, bền đỗ hiến mình hiếm. (ÐHV 609).

* Mỗi dịp hiến mình trong ngày không phải là một khổ đau, mất mát, nhưng là một đề nghị của Chúa để con được lớn lên (ÐHV 610).

Trong nước Việt Nam cũng như trên toàn thế giới, người ta nghe nói nhiều đến nhà phung Quy Hoà, ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn, nhưng thử hỏi mấy ai biết đến vị sáng lập nhà phung ấy! Vị đó là cha Paul Maheu, một linh mục người Pháp đã từ giã quê hương thân yêu với cuộc sống tiện nghi, để chôn đời mình giữa đám người xa lạ, mắc phải thứ bệnh khủng khiếp nhất trong loài người.

Thật thế, bệnh phung cùi là một thứ bệnh khủng khiếp nhất. Ai mắc nó phải chịu một cơn hấp hối trường kỳ, dai dẳng. Thân thể họ luôn luôn nhức nhối, lở loét, xông mùi thối tha nồng nặc. Dung nhan thì dần dần bị tàn phá, đặc biệt là khuôn mặt và tay chân, ai trông cũng xa lánh nhờm tởm. Xã hội quá khiếp sợ họ nên thường tìm hết cách xua họ vào một nơi khuất mặt và như muốn lãng quên đi kẻo mất vui cuộc sống.

Paul Maheu thì lại khác, là một linh mục Công giáo, ngài đã dấn thân vào nếp sống của người cùi, chọn họ làm con cái quý yêu cật ruột, sống trong một ngôi nhà bé nhỏ ngay giữa làng phung để đêm ngày săn sóc họ, lo cho họ đầy đủ vật chất cũng như tinh thần.

Phía sau nhà có một cái kẻng, mỗi lần nghe tiếng kẻng đánh, cha vội đi ra và dịu đàng hỏi:

- Có việc gì vậy con? Vào đây!

Ngày nào cũng thế, điệp khúc ấy cứ vang lên đều đặn, và con tim của những người phung hủi hân hoan đón lấy. Rồi đến lượt họ, họ cũng cất lên những lời tâm sự, vì trong cảnh cô đơn buồn tủi ấy, chỉ mình cha Maheu là người thân tín duy nhất của họ thôi.

- Thưa cha con đau buồn quá! Ðêm qua con mới rụng thêm mất một đốt ngón tay nữa. Con đã lượm được, nè, đây cha xem.

Cha Maheu cầm lấy đốt lóng tay, thương tiếc như chính một phần thân thể của mình. Ngài ôm choàng lấy bệnh nhân, nghẹn ngào thốt lên những lời an ủi động viên tinh thần họ:

- Tội nghiệp con quá! Ta hãy cứ chiến đấu với bệnh tật, cứ dùng thêm thuốc để chận đứng cơn bệnh đi...

Ðối với cha Maheu, không gì quý bằng các người phong hủi. Ngài không thể rời họ một ngày, không thể không tìm cách khen lao họ khi có dịp. Mỗi khi khách từ xa tới thăm, ngài thường mời ở lại dùng bữa. Trong lúc ăn, miệng ngài liên tiếp giới thiệu:

- Mời dùng trứng này, do gà của người phung nuôi đấy! Mời dùng cá này cũng của người phung mới câu hồi sáng; còn đây là xà-lách cũng do tay người phung trồng đấy! Tốt lắm!

Vừa mời ngài vừa ăn một cách ngon lành trong lúc khách thì quá khiếp sợ, chẳng dám dùng một tí chứ đừng nói chuyện ăn với uống.

Không mấy năm sau, cha Maheu đã trở thành người phung thực sự. Càng đau đớn càng có dịp để chia sẻ cuộc đời của họ, họ càng yêu mến trọng kính ngài. Và rồi một hôm, người hùng dấn thân đã nằm xuống, xác ngài được chôn cất ngay giữa làng cùi bên cạnh những người con thân yêu nhất.

3. Ông tổ "Hùng tâm dũng chí"

* Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến, đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Ðức Kitô (ÐHV 611).

* Con gặp trăm ngàn thanh thiếu niên, lay lất trên đường, không lối thoát. Họ bàn tán bất tận về mộng xây dựng một xã hội mới, một con người mới, nhưng họ đã gặp xì ke, bạo động, trụy lạc, dối trá, chán nản... Họ cần con, họ kêu con: tiếng kêu của người chết đuối, tiếng van của người ngộp thở (ÐHV 618).

Sau đại chiến thứ hai, thanh thiếu niên ở các nước Âu châu, nhất là nước Pháp, cảm thấy thể chất tâm lý tan nát rã rời. Rất nhiều em phải thất lạc gia đình, không biết đi về đâu; em khác lại mất cha, chết mẹ; có em lại phải bệnh hoạn tàn tật, lang thang khắp nơi, tụ tập lại thành từng bè, từng lũ, chia nhau đi cướp bóc, đập đánh, chơi bời phóng đảng. Các chính quyền đã cố gắng phục hồi kinh tế, cải tạo xã hội. Nhưng cho ăn, cho mặc đâu phải là đủ. Các em còn cần tình thương, cần lý tưởng để xây dựng cuộc đời mới.

Linh mục Gaston Courtois, người Pháp đã dấn thân vào công việc ấy. Theo gương thánh Gioan Boscô, ngài săn sóc các em, yêu thương các em, hướng dẫn các em trong nhiều buổi sinh hoạt thoải mái, hùng mạnh. Ngài cũng khuấy động lên trong hàng ngũ những người có trách nhiệm ý thức về sự sa sút của giới trẻ. Họ cộng tác với ngài. Thế rồi hàng vạn thanh thiếu niên đã tìm lại được tuổi xuân, niềm hy vọng lại bừng sáng, lý tưởng sống lại hiện rõ. Phong trào "Hùng tâm dũng chí" ra đời và chẳng mấy chốc lan rộng khắp năm châu.

Vừa hòa mình với các em, cha Gaston Courtois vừa thức khuya dậy sớm để viết sách báo hướng dẫn giới trẻ. Trước nhỏ sau lớn. Nhà in Fleurus ra đời giữa lòng thủ đô Paris và ngày càng phát triển mạnh.

Cha Gaston Courtois được mời tham gia nhiều tổ chức quốc tế đặc trách thanh thiếu niên. Về sau, ngài được gọi sang phục vụ bên cạnh Tòa Thánh. Dù đã lớn tuổi nhưng chủ nhật nào người ta cũng thấy ngài đi sinh hoạt với nhóm thanh thiếu niên ở Roma, vẫn tươi vui hăng hái như thuở nào. Thanh thiếu niên sung sướng vây quanh ngài, cởi mở tâm sự với ngài. Chúng biết quả tim ngài hằng yêu mến chúng, vì cả cuộc đời ngài đã hiến trọn cho chúng.

4. Hóa nên người Trung Hoa để chinh phục người Trung Hoa

* Con phải trở nên "chính con" theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa trong con khỏi những bụi bặm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần (ÐHV 607).

* "Ðây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng vì anh em." (1Yn 3: 16). Con hỏi cha: "Ðâu là mức độ dấn thân?" Hãy làm như Chúa Giêsu: "Thí mạng." Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cơ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết..., nếu con dấn thân lối "cứu viện cho người thắng trận," thì thôi, nên dẹp tiệm, "dấn thân trá hình", "dấn thân thương mãi." (ÐHV 612).

Tuy là người Bỉ, cha Vincent Lebbe (1877-1940) đã tình nguyện dấn thân sang truyền giáo ở Trung quốc. Suốt bao năm ngày, ngài luôn miệt mài thao thức, suy tư và cầu nguyện trước vấn đề khó khăn: Làm sao để dấn thân truyền giáo và phục vụ xã hội Trung Hoa cho đắc lực. Thế rồi, dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa, câu trả lời đã đến với cha: muốn đến với người Trung Hoa phải trở nên người Trung Hoa thực sự.

Cha Viencent Lebbe đã triệt để dấn thân theo đường hướng ấy, từ lối cắt tóc, để râu, ăn mặc cho đến cách suy tư, cử hành phụng vụ, giảng dạy giáo lý (ngài xin nhập tịch Trung Hoa và lấy tên là Lôi Minh Viễn), tất cả đều nhắm một mục đích là làm sao để vừa phù hợp với tâm hồn người Trung Hoa, vừa bảo tồn căn nguyên bản chất Kitô giáo. Và trong tinh thần ấy, ngài đã thành lập một Hội Dòng lấy tên "Anh em hèn mọn của Thánh Gioan Tẩy giả" để vận dụng cách sáng tạo nếp sống khổ tu vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội và tâm hồn người Trung hoa và áp dụng nguyên tắc truyền giáo của ngài.

Tại nước Bỉ quê hương ngài cũng có rất nhiều người sùng mộ tinh thần ấy. Họ đã lập nên một Tu hội Truyền giáo cho các linh mục viết tắt là S.S.H, tạm dịch là "Hội trợ tá của các xứ truyền giáo". Họ cũng lập thêm một Tu hội cho nữ giới viết tắt là A.F.I (Nữ trợ tá quốc tế).

Tinh thần cốt yếu của cha Lebbe là gì?

Ðó là không đi theo phương pháp bấy lâu: đến một quốc gia, nhận trách nhiệm coi sóc một giáo phận hoặc một giáo xứ, đứng đầu hàng giáo sĩ địa phương... mà là theo một phương pháp mới: đến một quốc gia, một giáo phận do hàng giáo phẩm bản xứ quản trị và làm những người trợ tá phục vụ dưới quyền họ, cho dù họ kém khả năng hơn mình. Ðối với những năm đầu của thế kỷ XX này, chủ trương trên thật là mới mẻ, độc đáo, có tính chất cách mạng. Vì trước đây, tại các xứ truyền giáo, hầu như chẳng có một vị Giám mục bản xứ nào, huống nữa là sự kiện các linh mục thừa sai đi làm trợ tá cho hàng giáo sĩ bản xứ. Quả là táo bạo!

Và còn táo bạo hơn nữa là sự việc sau đây: Trong một chuyến trở về công tác ở Âu châu, cha Lebbe đã sang Roma xin được yết kiến Ðức Thánh Cha Piô XI, vị Giáo Hoàng được mệnh danh là "Giáo hoàng của Công giáo Tiến hành" và "Giáo Hoàng của truyền giáo".

Trong buổi triều yết, ngài đã trình bày với Ðức Piô XI:

- Xin Ðức Thánh Cha đặt các Giám mục bản xứ cho người Trung quốc.

Ðức Thánh Cha vui vẻ trả lời:

- Ðó là điều cha rất mong muốn. Con thấy hàng Giáo phẩm Trung quốc hiện nay có đủ khả năng nhận trách nhiệm lãnh đạo nhận các giáo phận không?

- Thưa Ðức Thánh Cha, con tin chắc là có. Với ơn Chúa, họ sẽ chu toàn tốt trách nhiệm... Con thấy Tòa Thánh cần trao trách nhiệm cho hàng giáo sĩ bản xứ càng sớm càng tốt.

Ðức Thánh Cha hỏi ngay:

- Con có biết rõ linh mục Trung quốc nào xứng đáng được tấn phong làm Giám mục không?

- Thưa Ðức Thánh Cha có!

- Biên tên cho cha ngay đi.

Cha Lebbe liền lấy giấy bút ra, viết ngay liền một danh sách gồm tên 10 linh mục Trung quốc và đệ trình lên Ðức Thánh Cha.

- Tốt lắm! Cha sẽ xúc tiến ngay việc này.

Thật là một bất ngờ ngoài sức tưởng tượng. Cha Lebbe ra về, tâm hồn cảm động hân hoan. Ðức Piô XI quả là một vị Giáo Hoàng đầy nhiệt tình và sáng suốt!

Ngày lễ Chúa Kitô Vua, 28.10.1926, chính Ðức Piô XI chủ sự phong chức cho 6 Giám mục Trung quốc đầu tiên tại đền thờ Thánh Phêrô, trong số đó hầu hết đều nằm trong danh sách của cha Lebbe đề nghị. Lúc ấy tại một góc đền thờ, người ta thấy ngài quỳ gối âm thầm cảm tạ Chúa, vì đã cho ngài chứng kiến tận mắt điều ngài mong ước bấy lâu nay. Sau Thánh lễ, Ðức Piô XI tiếp các Tân Giám mục Trung quốc tại phòng khách, tặng cho mỗi vị một chiếc đồng hồ quả lắc và truyền các ngài trước khi về nước, hãy đi khắp Âu châu để cho mọi người thấy được hàng Giám mục bản xứ.

Thế rồi, tiếp sau các Giám mục Trung quốc ngày 30.10.1928, Ðức Piô XI cũng tự tay phong chức cho vị Giám mục Nhật Bản tiên khởi địa phận Nagasaki, rồi các Giám mục Ấn Ðộ, Indonêsia... Ngày 11.6.1933, cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng cũng được chính tay Ðức Piô XI tấn phong làm Giám mục Việt Nam tiên khởi.

Sau những tháng năm dấn thân phục vụ cho công cuộc truyền giáo, cha Vincent Lebbe đã nằm xuống (1940). Dân tộc Trung quốc coi ngài như một vị anh hùng quốc gia. Hội Thánh coi ngài như vị tiền phong của những công cuộc truyền giáo hiện đại. Thân xác ngài được chôn vùi ngay tại lòng đất Trung Hoa, để lại tấm gương sáng cho Kitô hữu thuộc đủ mọi thời.

5. Một biển ánh sáng

* Con không muốn làm một mình, con muốn làm cho người khác cùng biết làm, con không muốn dâng hiến một mình, con muốn người khác cùng dâng hiến, con không muốn tạo cảm tình cho cá nhân con, con thúc đẩy người khác mở rộng vòng tình cảm đến anh em, như một hòn đá tung xuống nước cứ gợn sóng ra mãi. Ðể lôi kéo họ ra khỏi chính mình, và trở nên con người như ý Chúa muốn từ đời đời (ÐHV 613).

* Những người khác quanh con, cả nhân loại đang đau thương, khấp khểnh trên đường mịt mù. Ðời con phải là hiến dâng, Ðể bắt nhịp cầu hy vọng, Ðưa họ đến với Chúa là cùng đích của tình yêu, là tất cả. Bên Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả là anh em con (ÐHV 615).

- Xin vui lòng tắt hết đèn! Một giọng nói nhỏ vang lên bên tai người phụ trách ánh sáng. Tất cả công trường rộng lớn chìm vào bóng tối. Mọi người nhôn nhao âu lo.

- Xin anh chị bình tĩnh và trả lời câu hỏi của tôi: có tối lắm không?

- Tối lắm! Ðen nghịt! mọi người la lớn!

- Tôi yêu cầu ai có hộp quẹt, máy lửa, đèn pin... hãy bật sáng lên!

Một phút nặng nề trôi qua...

- Có sáng không?

- Sáng lắm!

- Anh chị em xem: cả một biển ánh sáng. Thôi bật tất cả đèn pha lên lại.

Giọng vị linh mục vang lên sang sảng trên máy vi âm, một giọng nói có sức thu hút mọi người như hương thơm vương trong làn gió. Ngài chuyên môn phụ trách các bài giảng Tin Mừng trong những dịp lễ trọng. Hôm nay, thính giả kéo đến tham dự quá đông đến độ không một giáo đường nào có thể chứa nỗi, nên người ta đành kéo nhau ra công trường để nghe ngài giảng:

- Giữa trần gian đầy tăm tối, bất công đồi trụy này, người ta rất cần ánh sáng. Ánh sáng của mỗi người chúng ta tuy lập lòe yếu ớt, nhưng nếu ai cũng bật sáng ngọn đèn của mình, ai cũng hăng say dấn thân vì công ích thì tất cả chúng ta sẽ hợp thành một biển ánh sáng. Chúng ta sẽ phá tan u tối... Anh chị em có quyết tâm như vậy không?

- Quyết tâm! Quyết tâm!!!

6. Chuyến xe lửa tốc hành

* Con phải là hạng người công giáo ngoan đạo, sống quanh quẩn phòng thánh và con đã hóa nên "nửa thần, nửa thánh, nửa người" không? (ÐHV 620).

* Ðừng để thiên hạ xây dựng thế giới này mỗi ngày mà con không hay biết, không khám phá, không thao thức, không nhúng tay vào. Chúa đã cứu chuộc con, trao sứ mạng cho con và đặt con vào thế gian trong thế kỷ này, thập niên này, môi trường này. Ðặt con, chứ không phải cục đá! Khác nhau lắm! Ðừng làm "công giáo bù nhìn." (ÐHV 621).

* Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta. (ÐHV 622).

* Một cuộc cách mạng thực sự, khả dĩ canh tân tất cả, từ lòng con người mà chính mình cũng không dò thấu, đến toàn bộ cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội... của thế giới, không thể thực hiện "ngoài con người, ngoài Thiên Chúa", chỉ thực hiện "bởi con người, trong Chúa Kitô, với Chúa Kitô." Con hãy dấn thân vào mặt trận cách mạng thế giới ấy (ÐHV 623).

"Thế giới như một chuyến xe lửa tốc hành đang lao mình tới trước với một tốc độ kinh hoàng. Người dấn thân là người có can đảm nhào lên chuyến xe lửa ấy, chụp lấy tay lái và lái nó đi theo một hướng tốt đẹp hầu đạt đến mục đích mà họ mong muốn. Người không dấn thân là người hiểu biết nhưng không muốn lăn xả vào, chỉ đứng nhìn từ bên ngoài như một khán giả bàng quan".

Câu trên được trích trong một tác phẩm của cha Raoul Plus, một tác giả có công biên soạn nhiều sách thiêng liêng cho hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, hun đúc nhiều tâm hồn tông đồ dấn thân phục vụ xã hội.

7. Các hạng linh mục thợ

* Tại sao con cảm thấy con dang dỡ? Tại sao con thấy con đang lạc lõng giữa đường? Con xao xuyến? Con ngột ngạt? Vì con chưa đánh tan mây mù dày đặc đang che khuất hình ảnh Chúa trong con (ÐHV 614).

* Ðây mấy hạng dấn thân con muốn biết: Có người sau một thời gian vẫy vùng dấn thân, đâm ra hoài nghi giá trị cuộc đấu tranh, rồi rút lui về nhà thờ, tìm nguồn an ủi, "sợ bỏ quên Chúa, tôi không dấn thân." Có người "dấn thân cả xác lẫn hồn" vào cuộc đấu tranh, và để rảnh tay chém chặt, họ buông thả luôn cả Thiên Chúa. Trước họ nghĩ rằng: để thành công rồi sẽ nhớ Chúa; sau cùng họ nói: "Ðây là việc đời, tôi dấn thân, Chúa không liên hệ, mời Chúa đứng ngoài." Có người không chịu đào tẩu khỏi chiến trường mà cũng không phản bội sứ mạng Chúa trao, họ xác tín chỉ thắng trận với Chúa Kitô, vì thế với tất cả tâm hồn "tôi dấn thân với Chúa Kitô." (ÐHV 619).

Chung quanh những năm 1950-1955, vấn đề "linh mục thợ" rất sôi nổi ở Pháp.

Phải thành thực công nhận rằng những linh mục dấn thân làm thợ trong các công xưởng, hầm mõ, sẵn sàng hoà mình với giới lao động thợ thuyền để gần gũi họ, mang Chúa đến cho họ, là những người đầy thiện chí và rất có nhiệt huyết tông đồ.

Tuy thế, cũng một mục đích nhưng hướng tiến của mỗi người lại khác nhau.

Có nhiều người hết sức hăng say nhiệt tình bênh vực quyền lợi của giới cần lao nhưng lại bỏ quên các giờ đọc kinh, nguyện gẫm, bỏ cả làm lễ, cử hành các Bí tích, dần dần trở nên nguội lạnh, thờ ơ và ra đi vĩnh viễn, mất ơn gọi... Một thời gian sau, họ đã thú nhận với anh em: "Trước đây thợ thuyền biết tôi, kính trọng tôi, có gì họ cũng tâm sự, tin tưởng gởi gắm vào tôi. Giờ đây họ biết tôi thôi là linh mục, họ vẫn tử tế với tôi, những cảm tình của họ chỉ như một người bạn rủ rê nhậu cho vui chứ không bao giờ họ thổ lộ tâm can của họ cho tôi như trước nữa".

Có một số khác thấy gương ra đi của các anh em thì sinh chán nản thất vọng, không còn dám dấn thân nữa. Họ lui về với cuộc sống thầm lặng, tìm nguồn an ủi, "sợ bỏ quên Chúa, tôi không dấn thân".

Với hai hạng người trên đây, phong trào linh mục thợ đã phải trải qua một cơn khủng hoảng sâu đậm.

Nhưng một số trong họ đã can đảm vượt mọi trở ngại, tin tưởng và khiêm tốn đối thoại với hàng giáo phẩm, thành thật kiểm điểm chặng đường đã qua, rồi vạch ra một hướng đi mới có sự cân bằng giữa việc dấn thân đem Tin Mừng cứu rỗi cho mọi người mang lại sự giải phóng đích thực cho giới lao động, và đời sống nội tâm nền tảng của mọi việc tông đồ. Hàng giáo phẩm hết sức nâng đỡ họ và cùng với sự chấp thuận khuyến khích của Tòa Thánh, với sự cộng tác của họ, các Giám mục đã lập nên "Hội truyền giáo cho nước Pháp" (La Mission de France) để truyền giáo lại cho các giai cấp thợ thuyền trong nước, vì tuy là một quốc gia được mệnh danh là "Trưởng Nữ của Hội Thánh", nước Pháp vẫn còn có không biết bao nhiêu người hóa ra vô đạo, nguội lạnh. Hàng linh mục thợ cuối cùng này sau khi vượt qua nhiều thử thách, đã đạt tới thành công, suốt đời luôn sống trong hạnh phúc và dấn thân triệt để.

8. Hai vị thánh dấn thân

* Lâu nay cha thấy con đi kề bên Chúa mà không thấy Chúa, không gặp Chúa, không suy tư với Chúa, không đối thoại với Chúa, không hành động với Chúa. Con không an vui trong tâm hồn, và con dấn thân một mình, ngoài Chúa. Con đã mời Chúa lui về nhà thờ! (ÐHV 624).

* Con phải chọn cách dấn thân, nghĩa là căn cứ vào: khả năng của con, nhu cầu của anh em, môi trường con đang lăn lội. Con không làm được tất cả, nhưng làm tất cả những gì con làm được, vì làm với Ðức Tin (ÐHV 626).

Không cần phải đợi đến thời này, Hội Thánh mới đặt ra vấn đề dấn thân nhập cuộc. Ngay từ thời Trung cổ, nhiều vị đại thánh khổ tu ở nơi kín cổng cao tường, nhưng nhờ ơn Chúa soi sáng cũng dấn thân triệt để, không chỉ vào một công việc, một môi trường mà còn vào những công việc chung của toàn thể Hội Thánh.

Thánh Bênađô (1090-1153) thuộc Dòng Khổ Tu Xitô, là Viện phụ tiên khởi của Clairvaux (Pháp), một chi nhánh của Dòng. Suốt đời ngài luôn sống trong thinh lặng, khổ chế, nhưng vẫn sẵn sàng dấn thân mỗi khi nhu cầu Hội Thánh đòi hỏi: ví dụ ngài được Ðức Giám mục Guillaume de Champeaux truyền chức linh mục và sai đi biện bác chống lại các lạc giáo, đã vâng lệnh Ðức Giáo Hoàng Innocentiô II ra đi giảng thuyết chống lại ly giáo Pierre de Léon.

Ngài còn đi đây đó để hòa giải nhiều nhà cầm quyền Âu châu đang chống đối nhau kịch liệt. Xong sứ mệnh, ngài lui về tu viện, sống thầm lặng và viết rất nhiều tác phẩm giá trị, nhất là phương diện tín lý. Năm 1153, ngài nhắm mắt lìa trần tại Clairvaux, thọ 63 tuổi.

Thánh nữ Catarina thành Sienna (1347-1380) sống khổ hạnh, gương mẫu đúng theo lý tưởng của một nữ tu Dòng Thánh Ða-minh. Nhưng dưới sự thúc đẩy của ơn Chúa, một nữ tu hèn yếu như ngài mà đã quả cảm đi hòa giải nhiều gia đình đang chia rẽ nhau vì những mối thù truyền kiếp. Ngài còn thường xuyên thăm viếng các bệnh nhân chăm sóc giúp đỡ những người yếu đuối, bất chấp sự vu khống dèm pha của một số người cho ngài là đạo đức giả.

Lạ lùng hơn nữa, với lòng băn khoăn thao thức cho vận động của Hội Thánh, ngài đã nỗ lực chấn hưng lòng đạo đức đang bị sa sút, và vừa thuyết phục vừa vận động xin Ðức Thánh Cha Grêgôriô II dời giáo triều về Roma, vì kể từ thời Ðức Clêmentê V, năm 1309, các vị Giáo hoàng đều phải lưu vong tại Avignon (Pháp) khiến cho trong Hội Thánh rất đỗi hoang mang và chia rẽ trầm trọng; có lúc có đến hai vị Giáo hoàng, không biết ai giả ai thật. Năm 1376, chính thánh Catarina đã đưa Ðức Thánh Cha Grêgôriô XI về lại Roma giữa sự hân hoan của toàn thể Hội Thánh, chấm dứt cuộc lưu đày gần 70 năm tại Avignon. Ngài còn được triệu về Roma để làm cố vấn cho giáo triều nữa. Thánh nữ qua đời ngày 29.4.1380 lúc vừa 33 tuổi.

Tóm lại, tuy là một nữ tu mù chữ và trẻ tuổi, thánh Catarina đã chi phối đời sống chính trị, đời sống Hội Thánh và đời sống thiêng liêng tại Ý lúc bấy giờ. Nên chả lạ gì mà ngài đã được phong làm Tiến sĩ Hội Thánh.

9. Linh mục làm trò xiếc

* Người Kitô hữu dấn thân khác với người ngoài vì con nhìn mục đích và phương tiện với cái nhìn của đức tin: Mục đích: vì Chúa Kitô, con mến Chúa trong anh em. Phương tiện: con hãy nhớ rằng, qua các tổ chức, các cơ cấu, con nhằm "con người", hợp tác chân thành chứ không "giựt dây" họ, yêu thương chứ không thù ghét, không vụ lợi, không làm loạn (ÐHV 625).

* Tông đồ đạo đức cũng là một lối dấn thân, nhưng các hoạt động rất đáng khen ấy, "không chuẩn" cho con khỏi dấn thân phục vụ anh em trong các việc trần thế, nơi mà Chúa Quan Phòng đặt để con (ÐHV 627).

Cha Simon được thuyên chuyển đến một vùng dân chúng rất nghèo khó, khổ nhất trong nước Pháp! Mà chúng ta biết: một khi thân xác quá đói thì việc phượng thờ Chúa và lo lắng cho phần hồn cũng gặp nhiều khó khăn đáng kể (có thực mới vực được đạo!). Cha Simon dâng lễ tại nhà thờ rất sốt sắng, nhưng... chỉ có một mình ngài, nhà hoàn toàn trống rỗng, đánh muốn vỡ cả chuông mà chẳng có ma nào tới, vì cái đói buộc họ suốt ngày sản xuất lao động.

Cha Simon quá buồn nản, nhưng ngài nhất định không chịu thua. Nhiều lần ngài đến tận mỗi gia đình để ân cần hỏi thăm và khuyên lơn tha thiết. Dần dần các trẻ em trong giáo xứ bắt đầu tới, một ít người đã phấn đấu đi lễ Chúa nhật. Thế nhưng, nhiều hàng ghế trong nhà thờ vẫn còn trống. Suy nghĩ mãi, một hôm cha Simon đánh bạo nói với họ:

- Anh chị em thân mến, anh chị em hãy tin tôi: hãy trở về với Chúa, anh chị em sẽ được hạnh phúc. Tôi xin hứa với anh chị em, mỗi gia đình có một nhà ngói để làm tổ ấm, rất vệ sinh, tiện nghi đầy đủ. Sau đó ta cùng xây trường học cho con em ta, bộ mặt làng sẽ đổi mới... Tôi chỉ xin chị em một điều kiện: Hãy trở về với Chúa. Chúa không trao tận tay cho anh chị em cơm bánh, lúa gạo; nhưng người ban sức mạnh để lao động, ban hòa khí để sum họp vui vẻ, ban óc tiết kiệm để tích lũy, rồi đời ta sẽ khắm khá hơn...

Lời hứa thì bao giờ cũng tốt đẹp, nhưng cha Simon sẽ làm gì đây, vì ngài không một xu dính túi, không một người quen biết để vay mượn. "Thôi đành liều mạng vậy! biết đâu ta sẽ thành công!" Cha Simon hăng hái bắt tay vào việc, ngài chuẩn bị dụng cụ, chở trên một chuyến xe và đi đến thành phố đầu tiên. Công việc trước hết là vào tòa soạn của một nhật báo để thuê họ đăng tin: "Ngày ... cha Simon sẽ biểu diễn nhảy cao 36 mét xuống nước, mời đồng bào đến xem ở bờ sông... lúc... giờ!" Rồi ngài lê mê đem cọc sắt đến, vặn đinh ốc vào, dựng một giàn nhảy ở bờ sông cao 36 mét.

Ðúng giờ hẹn, thiên hạ ùn ùn kéo nhau đến xem ông cha biểu diễn. Cha Simon mình mặc đồ tắm, từ từ leo lên tận đỉnh, khom mình chào khán giả, rồi nhanh như tia điện xẹt, ngài phóng mình xuống nước, bọt tung lên cao mấy mét. Lát sau, ngài ngoi lên và bơi vào bờ. Khán giả vỗ tay hoan hô nhiệt liệt: "Bis! Bis! Thêm lần nữa". Cha Simon không ngần ngại theo ý họ nhảy liên tiếp 2, 3 lần nữa.

Biểu diễn xong, giữa tiếng hoan hô nhiệt liệt, ngài lau mình mặc áo vào và ngỏ lời với khán giả:

- Thưa anh chị em, tôi là một cha xứ, tên Simon. Giáo dân tôi nghèo quá, tôi không biết làm sao để cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của họ được thoải mái hơn, hết bệnh tật, hết đói rách, hết mù chữ... Tôi quyết tâm xây cho mỗi gia đình một ngôi nhà cỏn con, làm lớp học cho trẻ em, dạy thêm nghề phụ cho người lớn... Tôi không bán vé, mà cũng chẳng có tiền để làm vé, nhưng nếu anh chị em muốn giúp tôi, thương con cái tôi, thì kẻ ít người nhiều, xin anh chị em bỏ vào chiếc mũ tôi đây... Ai chưa có hoặc muốn cho riêng, xin gửi về địa chỉ của tôi... Tôi xin cám ơn thay cho con cái tôi.

Nghe ngài nói ai cũng cảm động. Họ hết lòng ủng hộ ngài; chẳng mấy chốc chiếc mũ đã đầy, tiếng đồn lan ra khắp xứ.

Rồi từ đó, hằng tuần, cứ chiều thứ bảy cha Simon lại về giáo xứ, đem theo một số tiền, dâng lễ ngày chúa nhật, rồi lại đi tiếp tục biểu diễn khắp nơi. Cứ mỗi lần cha Simon trở về lại giáo xứ thì khuôn mặt ngôi làng được biến đổi hơn một chút nhà nhà cảm thấy vui tươi phấn khởi, nhiều mái ngói đỏ chói mọc lên, nhiều vách tường được xây dựng, nhất là nhà thờ có tiếng hát cầu kinh ngày càng lớn mạnh, sốt sắng.

Sau ba năm, mỗi gia đình đều có được một ngôi nhà ngói khang trang sạch sẽ. Năm thứ tư, trường học đã mọc lên, bệnh xá cũng được tu bổ, thuốc men dồi dào. Không ai còn nhìn ra dáng dấp của ngôi làng cũ nghèo nàn năm xưa. Tâm hồn các Kitô hữu trong giáo xứ đã biến đổi, họ tìm thấy tình yêu Chúa trong con người cha xứ của họ.

10. Ngày sống của Ðức Thánh Cha Piô XII

* Các nhà xã hội học, tâm lý học, phân tích theo chuyên môn, làm nhiều thống kê công phu. Con đừng xem thường những công trình khoa học ấy, nhưng con hãy thu các câu hỏi họ ra và đọc với đôi mắt đức tin (ÐHV 617).

* Khi theo dõi tin tức, con phải nhìn thấu qua bên kia con người và lịch sử, con xác tín: "Ðây là tin tức của Nước trời", rồi sau khi xếp báo lại, tắt Radio, Tivi, con sẽ cầu nguyện sốt sắng. (ÐHV 629)

* Sau những hàng chữ trên mặt báo, trong nhưng hình ảnh trên truyền hình, qua những tin tức của làn sóng điện, con khám phá giá trị Phúc Âm trong những biến cố vui mừng và hy vọng, lo âu và sầu khổ, trở ngại và tiến bước của dân Chúa trên đường về Ðất Hứa (ÐHV 630).

* Chúng ta dùng danh từ phân biệt đạo và đời, hồn và xác, nhưng các yếu tố ấy không thể tách rời nhau được, nó bó kết lẫn nhau trong lòng con Chúa: - Chỉ có một cuộc sống, - Chỉ có một lịch sử, - Ðạo, đời, hồn, xác - Ðều liên hệ mật thiết. (ÐHV 631).

* Mỗi giây phút, con đang thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử (ÐHV 633).

Mỗi sáng, sau giờ nguyện gẫm và Thánh lễ, Ðức Thánh Cha Piô XII vào phòng dùng điểm tâm (8 giờ). Trên bàn ngoài một ít thức ăn thanh đạm, người giúp việc đã để sẵn các tờ báo mới nhất vừa xuất bản trong đêm.

Vừa điểm tâm, Ðức Piô vừa nhìn qua một loạt những hàng tít lớn nhỏ để có cái nhìn bao quát về các biến cố quan trọng mới xảy ra trên thế giới. Sau đó, ngài đọc lại những bài đáng chú ý hơn, rồi mở radiô nghe tin tức ban sáng.

Ðiểm tâm xong, Ðức Thánh Cha lên văn phòng (8 giờ 30) và nhân vật được ngài trực trước tiên là Ðức Hồng Y Quốc Vụ Khanh. Vị này trình bày thêm cho Ðức Thánh Cha chi tiết các biến cố, báo cáo về các điện tín vừa nhận được từ các đại diện Tòa Thánh gửi về, bàn thảo đến các vấn đề liên quan đến Hội Thánh.

Ðức Thánh Cha chăm chú lắng nghe và ngắm nhìn các biến cố ấy dưới ánh sáng đức tin, để tìm cách đem Tin Mừng vào lòng thế giới, băng bó các vết thương, hòa giải mối hận thù giữa các dân tộc. Buổi hội kéo dài đến mấy tiếng đồng hồ. Sau đó ngài tiếp các vị Hồng Y Bộ trưởng ở Vatican, tiếp các Giám mục khắp nơi đến trình bày về mỗi địa phận, rồi tiếp các chính khách, các giáo sĩ có tiếng và các phái đoàn. Ðến một giờ trưa, ngài xem qua danh sách những người ngày mai xin bệ kiến. Nửa giờ sau, Ðức Thánh Cha dùng bữa trưa rồi nghỉ. Ðúng 4 giờ chiều, ngài đi bách bộ giải trí trong vườn Vatican. Một giờ sau ngài trở về, đọc kinh một lúc và bắt đầu làm việc lại. Suốt thời gian này Ðức Thánh Cha ngồi ở bàn giấy để dọn diễn văn, thảo các thông điệp sẽ công bố, phúc thư cho những người đặc biệt, gởi bí thư kiểm soát thường vụ, sắp chương trình làm việc ngày mai, rồi trước khi dùng cơm tối thì đi lần hạt với các bí thư và vệ đoàn.

Khoảng 9 giờ đêm, ngài dùng cơm tối. Mười giờ trở lại văn phòng làm việc cho đến một giờ sáng. Ngọn đèn của phòng ngài bao giờ cũng là ngọn đèn tắt sau cùng trong thành phố Roma. Ngài không bao giờ ra khỏi khuôn khổ làm việc đó, trừ lúc phải tham dự các nghi lễ. Và chẳng khi nào ngài nhúng tay vào các vấn đề hoàn toàn hành chánh Vatican. Ngài đã ủy cho các cộng tác viên trông coi bộ máy cai trị đó. Phần ngài, ngài hoàn toàn hiến thân cho công cuộc của Hội Thánh và hoàn vũ. Các đấng kế nghiệp ngài cũng theo nếp sống tốt lành và sáng suốt ấy.
-----o0o-----

27- Canh Tân

1. Chương trình canh tân của Ðức Phaolô VI

* Ðức Phaolô VI đã vạch rõ muốn canh tân thế giới ngày nay phải loại bỏ:

1) Thuyết thế gian hóa: chỉ xem hạnh phúc trần thế là cùng đích, tôn thờ khoái lạc, của cải, quyền thế...

2) Thuyết tục hóa: Không còn chấp nhận giá trị của hy sinh, khiêm nhượng, nhẫn nại...

3) Thuyết chính trị hóa: chủ trương chỉ có chính trị mới giải quyết được mọi vấn đề: hòa bình, phát triển, gia đình, huynh đệ, công lý... (ÐHV 655).

* Cuộc đời con chỉ là một chuỗi liên tục: giờ ngủ, giờ thức dậy, giờ ăn, giờ học, giờ công sở, giờ lao tác, giờ giải trí, giờ tivi, giờ đọc báo... Nếu không có một yếu tố gì thống nhất đời con, một yếu tố cần thiết độc nhất, thì đời con thật là nhàm chán rời rạc. Yếu tố ấy là Tình Yêu Thiên Chúa. Ðời con sẽ đổi mới hẳn. Tất cả hoạt động của con từ đây là những nét biểu lộ chứng tích của Thiên Chúa trong con (ÐHV 656).

Ðức Phaolô VI đã nhiều lần kêu gọi canh tân qua các lời giảng dạy cũng như các văn kiện của ngài. Ngài nói có ba điều cần phải tiêu diệt trong tâm hồn người Công giáo trước khi canh tân Hội Thánh và xã hội:

a- Thuyết thế gian hoá (mondanisation) chỉ xem hạnh phúc trần thế là cùng đích của cuộc đời. Nhiều người Công giáo vẫn dự lễ, đọc kinh, vẫn đóng góp vào các việc bác ái, nhưng cuộc sống của họ rất xa lạ với Tin Mừng. Trọng tâm của đời họ là quyền hành, lạc thú, tiền của. Bạn hữu của họ là những người giàu sang, ngay cả những kẻ bóc lột, tham nhũng, những kẻ nắm chức quyền trong tay một cách độc tài khát máu... Họ không nghĩ đến đời sau, họ bình thản như thể sẽ sống muôn đời trên cõi thế này và thiên đàng đối với họ chính là trần gian.

b- Thuyết tục hóa (sécularisation): gạt hẳn sự siêu nhiên ra khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không còn tìm thánh ý Chúa; cho rằng hy sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp lý, có lợi cho bản thân. Con người tu sĩ, con người Kitô hữu giờ đã hoá nên con người thế tục luôn luôn thốt lên: "Dại gì làm thế cho khổ cái đời!"

c- Thuyết chính trị hóa (politisation): đặt mọi vấn đề dưới khía cạnh chính trị; chủ trương rằng công lý, huynh đệ, hòa bình, phát triển... chỉ được giải quyết bằng chính trị. Loài người chỉ đối thoại với nhau bằng sức mạnh, chỉ giao tiếp bằng sách lược. Loại hẳn Thiên Chúa ra khỏi xã hội, không bao giờ chấp nhận, nhìn xem hoặc giải quyết một vấn đề dưới ánh sáng Phúc Âm. Ðức Phaolô VI đã nói rằng, những chứng bệnh này không những chỉ là người ngoài, mà còn là của những người con Hội Thánh. Chúng là những nguyên nhân căn bản đưa đến sự "tự hủy diệt".

2. Nguyên nhân khủng hoảng hiện tại

* Người ta thường đổ tội cho Hội Thánh ù lì, cổ xưa, nặng nề cơ cấu, nên không lạ gì phải có khủng hoảng. Không đúng vậy đâu. Con đừng la làng và đổ lỗi cho Hội Thánh để chuẩn cho con xét mình và suy nghĩ. Hội Thánh là tất cả dân Chúa, trong đó có con. Ðây là nguyên do khủng hoảng:

1) Hạ giá trị sự cầu nguyện.

2) Người Công Giáo cũng nói, cũng nghĩ như kẻ khác (không còn gì là siêu nhiên).

3) Không chấp nhận sự điên dại của thánh giá Chúa (ÐHV 636).

* Con phải canh tân tâm hồn quảng đại, đơn sơ đối với Chúa: "Chúa muốn gì, con cũng cho hết", và đừng quên điều thứ hai: "Chúa cho con gì con cũng nhận hết" (ÐHV 642).

* Khi con tật bệnh, cha mẹ tiếp máu, chuyển sang cho con, để đổi mới con, làm cho con sống lại tươi tắn hồng hào hơn. Con chỉ canh tân được đời sống con, canh tân Hội Thánh, nếu con liên lỉ chuyển máu Chúa vào huyết quản, vào tim con, tiếp cứu cho con, thay thế máu xấu của con (ÐHV 643).

* Với tất cả nỗ lực của chúng ta để canh tân, Với tất cả sách vở, tổ chức, ủy ban, hoạt động, hy sinh, Với tất cả con người, cơ khí, nhà máy, xa lộ, phi thuyền, vệ tinh, khoa học,... Chúng ta sẽ là gì? Ðời chúng ta có ý nghĩa gì? (ÐHV 647).

* Nếu chúng ta không nhìn lên Chúa là nguồn hy vọng cho đời ta luôn luôn mới mẻ, an vui. Ai giải đáp được? (ÐHV 648).

Là một nhà thần học Tin lành, mục sư Oscar Cullmann đã giảng dạy nhiều năm tại nước Áo, để lại nhiều tác phẩm rất giá trị về Thần học, Thánh Kinh và Phụng vụ.

Giữa lúc Âu châu đang chìm đắm trong khủng hoảng sau Công đồng Vatican II, người ta đã mời ông sang diễn thuyết cho một số nhà trí thức Công giáo họp tại Strasbourg, nước Pháp. Ông thành thực đi thẳng vào vấn đề và trình bày đại khái như sau:

"Cuộc khủng hoảng hiện nay không phải chỉ xảy ra trong Hội Thánh Công giáo; chính Giáo Hội Tin lành của chúng tôi cũng không thoát khỏi.

"Sau khi nhìn một cách tổng quát và nghiên cứu nhiều trường hợp địa phương, chúng tôi thiết nghĩ: nguồn gốc sinh ra khủng hoảng có thể tóm tắt như sau:

a- Hạ giá sự cầu nguyện, đang lúc mà sự cầu nguyện phải chiếm địa vị tối thượng trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta không bám víu vào Chúa thì chúng ta không còn sức mạnh nữa.

b- Người Kitô hữu cũng nói, cũng nghĩ như người khác, không nhìn sự kiện với con mắt Thiên Chúa, không phản ứng với thái độ Phúc Âm. Trên lý thuyết và danh nghĩa thì họ là một Kitô hữu, nhưng ra giữa xã hội, đi sâu vào thực hành thì họ là một người ngoại đạo, một kẻ vô thần.

c- Người Kitô giáo không chấp nhận sự điên dại của Thập giá Chúa, như thánh Phaolô đã dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họ tránh hy sinh, tránh khó nghèo. Họ tìm lời khen, họ muốn tự do theo ý riêng họ. Họ muốn theo Chúa Giêsu lúc Người biến hình trên núi Taborê, nhưng dừng lại bên ngoài vườn Giêtsêmani, và không trèo lên núi Thập giá".

Ý kiến của Mục sư Oscar Cullmann trên đây quả phù hợp với tư tưởng của Ðức Phaolô VI vậy.

3. Gioan cụ già rất trẻ

* Phải canh tân bao lâu? - Phải luôn luôn khởi sự lại. - Phải luôn luôn tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng, lúc con khởi sự đứng lại là khởi sự thụt lui xuống dốc, khởi sự cổ hủ (ÐHV 640).

* Thế kỷ nào cũng có những "biến cố Phúc Âm" với những người Chúa Quan Phòng ban cho thế giới, cho lịch sử: Bênêđictô, Augustinô, Phanxicô, Bênađô, Vinh-sơn, Avila, Inhaxiô, Gioan Boscô, Têrêxa Hài Ðồng... và mỗi lần các ngài lại khám phá một khía cạnh mới mẻ, thổi một luồng sinh khí mới của Phúc Âm đáp lại đòi hỏi của thời đại (ÐHV 645).

* Con hãy hợp tác để tạo nên "Mùa Xuân Mới" cho Hội Thánh. Con hãy chuẩn bị các tâm hồn đón nhận "Một lễ Hiện Xuống mới" trong Hội Thánh. Con hãy nên cánh của mở ra để đón làn gió mát dịu ngập tràn, làm tươi sáng Hội Thánh (ÐHV 657).

* Ðộng lực và tác giả mọi cuộc canh tân trong Hội Thánh là Chúa Thánh Thần, "Ðấng canh tân mặt đất". Mỗi cuộc canh tân phải là một lễ Hiện Xuống mới và không thể có lễ Hiện Xuống mới ngoài Chúa Thánh Thần. Con không thể canh tân ngoài Chúa Thánh Thần (ÐHV 660).

Chiều ngày 28.10.1958, sau khi lãnh phép lành đầu tiên của Ðức Tân Giáo Hoàng Gioan XXIII, nhiều người đã tỏ vẻ thất vọng thốt lên lời: "Phải mà được Ðức Hồng Y Agagianian làm Giáo Hoàng thì hay biết mấy, Ðức Giáo Hoàng mới già quá! 78 tuổi rồi còn làm gì được nữa!"

Chính Ðức Tân Giáo Hoàng cũng biết như vậy. Nhưng, ai có ngờ đâu, trong khoảng thời gian không đầy 5 năm, biết bao cuộc canh tân đã được thực hiện trong lòng cuộc sống Vatican cũng như trên toàn thể Hội Thánh và thế giới.

Ngày trước, Ðức Giáo Hoàng không bao giờ bước chân ra khỏi Vatican, trừ dịp hè, đi nghỉ tại Castelgandolfo, vì đó là thông lệ, cũng như vì mỗi lần Ðức Giáo Hoàng ra khỏi Vatican thì nước Ý phải đón tiếp và gìn giữ an ninh trật tự như một vị Quốc trưởng. Thế mà Ðức Gioan XXIII mới lên ngôi Giáo Hoàng chưa được hai tháng đã có ý định đi thăm viếng nhà tù Ara coeli và bệnh viện nhi đồng Gesù Bambino trong thành Roma vào dịp lễ Giáng Sinh. Người ta trình ngài:

- Tâu Ðức Thánh Cha, xưa nay các Ðức Giáo Hoàng đâu có đi ra ngoài như thế!

- Xưa không ra thì nay cha ra thử xem sao!

- Biến cố này đối với năm 1958 thực là mới mẻ táo bạo; các báo cho chạy tít lớn đăng hình ảnh và hết lòng ca ngợi cụ già trẻ trung ấy.

Hôm khác, ngài gọi xe đi thăm một linh mục thân thiết già cả đang lâm bệnh nặng ở xa thủ đô Roma cả trăm cây số. Một lúc sau, cả Vatican báo động: "Ðức Giáo Hoàng đã mất tích" rồi thông báo cho chính phủ Ý hay. Cảnh sát được huy động tối đa mà cũng không sao tìm ra bóng dáng vị Giáo Hoàng lạ lùng ấy. Chiều tối, xe hơi chở Ðức Giáo Hoàng trở về nhà, ngài tươi cười chống gậy bước lên tầng cấp!

Một bữa khác nữa, ngài bảo đi mời một ông bạn đến dùng bữa với ngài. Người ta liền tâu:

- Thưa Ðức Thánh Cha, xưa nay các Ðức Giáo Hoàng chỉ dùng bữa một mình thôi à!

- Cha thấy có luật nào cấm Ðức Giáo Hoàng mời khách ăn cơm thân mật đâu! Ăn cơm với người khác đâu phải là tội!

Một buổi sáng nọ, các công nhân đang làm việc trong nhà in Vatican thấy Ðức Gioan XXIII từ từ tiến vào, chẳng có một lời báo trước... Họ hết sức ngạc nhiên và lúc đầu hoảng hốt, nhưng rồi họ sung sướng vây quanh ngài, nghe ngài hỏi han thân mật.

Chiều chiều, ngài hay xuống bách bộ trong vườn Vatican, và thường lúc ấy các người làm vườn phải đi chỗ khác hay phải nghỉ việc; nhưng ngài ra lệnh cứ để họ làm việc tự nhiên, có lúc ngài dừng chân nói chuyện với họ.

Chưa trị vì được bao lâu mà Ðức Thánh Cha đã đổi hẳn bầu khí ở Vatican như thế, khiến ai ai cũng trìu mến ngài, và nhất là cảm thấy bỡ ngỡ về tính đơn sơ nhân hậu của vị Giáo Hoàng đã ngoài 80 tuổi.

Nhưng trong giáo triều cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, Ðức Gioan XXIII lại còn đem đến rất nhiều bỡ ngỡ nữa:

Mới hai tháng sau khi nhậm chức, ngày 15.12.1958, ngài đã phong một lúc 23 vị Hồng Y mới và bãi bỏ tập tục đã có từ đời Ðức Sixtô V (1586) là giữ số hồng y nhất định là 70 vị (rập theo truyền thống 70 vị kỳ lão trong Thánh Kinh); ngài đưa dần con số Hồng y lên đến 90 vị để nhiều quốc gia được có đại diện trong Hồng y đoàn.

Ngày 25.1.1959, ngài đến dâng lễ mừng kính "Thánh Phaolô trở lại" tại Vương Cung Thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành. Sau lễ, mọi người xếp hàng chào hai bên đường thấy ngài bước lên xe vừa mỉm cười vừa đưa tay ban phép lành cho họ, chẳng một ai hay biết cách đó mấy phút, lúc các Hồng y và Giám mục đưa ngài về phòng thánh ngài đã nói chuyện thân mật và đột nhiên công bố: "Tôi sẽ triệu tập Công đồng chung Vatican II". Mãi đến 12 giờ ngày hôm ấy, lúc đài phát thanh Vatican loan tin, mọi người mới chưng hửng ngạc nhiên trước biến cố lịch sử lớn lao ấy. Thế rồi sau đó, ngài bắt đầu đặt Ủy Ban trung ương, các tiểu ban, văn phòng... để chuẩn bị cho đại công đồng sẽ khai mạc vào ngày 11.10.1962 tại Vương Cung Thánh Ðường Thánh Phêrô. Trước đó, ngài đã đi hành hương ở Loretto, nơi tục truyền có nhà của Ðức Mẹ để xin Ðức Mẹ dẫn dắt Công đồng đạt được thành quả tốt đẹp.

Công đồng Vatican II, một biến cố vĩ đại của Hội Thánh cũng như của nhân loại trong thế kỷ XX và còn ảnh hưởng sâu xa đến các thế hệ mai sau chính là do sáng kiến và công lao của Ðức Gioan XXIII vậy. Thế nhưng, với một giọng khiêm tốn và hồn nhiên, ngài đã thuật lại như sau: "Một đêm kia, tôi thao thức không ngủ, đầu óc chồng chất không biết bao nhiêu vấn đề cần giải quyết, tự nhiên, như một ơn linh ứng của Chúa Thánh Linh, tôi tự bảo: Phải triệu tập Công đồng! Công đồng Vatican II, nhất định sẽ là cánh cửa mở để làn gió mát trong và mới mẻ thổi vào lòng Hội Thánh".

Ngài rất tin tưởng và lạc quan về Công đồng, nhưng không bao giờ đánh mất nét thực tế. Khi nghe ngài tuyên bố sẽ thực hiện công trình vĩ đại ấy, có nhiều la lối rùm beng: "Hội Thánh đã canh tân rồi!" Ngài trả lời bằng một câu nói rất thâm sâu: "Hội Thánh không bao giờ canh tân xong, nhưng luôn tự canh tân mãi" (L'Eglise n'est jamais réformée, mais elle est toujours réformants). Chính ngài là người đầu tiên đã dùng danh từ "cập nhật hoá" để nói lên tinh thần và chiều hướng ấy.

4. Hoạt động canh tân của Ðức Phaolô VI

* Tình yêu nhân loại giới hạn một nhóm người.
- Tình yêu thần linh tiếp đón mọi người.
- Tình yêu nhân loại đáp trả sau,
- Tình yêu thần linh tình nguyện bước trước.
- Tình yêu nhân loại kéo riêng về mình,
- Tình yêu thần linh hợp nhất với kẻ khác.
- Tình yêu nhân loại chỉ động đến con người.
- Tình yêu thần linh biến đổi cả con người.
- Một khi con người được biến đổi, xã hội sẽ biến đổi, luật lệ sẽ biến đổi, liên lạc giữa người với người sẽ biến đổi: Canh tân toàn diện (ÐHV 638).

* Mỗi ngày báo chí chạy bằng hàng tít lớn những câu chuyện giật gân, những biến cố bùng nổ giữa loài người. Con phải hiện diện, phải hồi hộp thao thức với nhân loại. Những thời hiệu ấy thúc đẩy con xây dựng một xã hội mới mẻ mà báo chí không săn tin nổi: Xây dựng Nước Thiên Chúa, ngay từ trần gian với phương tiện có giữa trần gian (ÐHV 644).

* Canh tân đòi hỏi can đảm. Canh tân đòi hỏi quyết định: Trước bao nhiêu đau khổ, Trước tiếng gọi của Thiên Chúa, Con đừng hững hờ giả lờ, Hãy nên một tông đồ dấn thân cho công cuộc canh tân, dĩ nhiên với nhẫn nại hy sinh và chỉ vì mến yêu Hội Thánh (ÐHV 659).

Tiếp tục sự nghiệp của Ðức Gioan XXIII, Ðức Phaolô VI đã trung kiên thi hành sứ mệnh thực hiện Công đồng Vatican II dù phải trải qua muôn nghìn gian truân, thử thách, khủng hoảng, ra đi trong cũng như ngoài Hội Thánh.

Chiếc mũ "Ba tầng" của giáo phận Milanô dâng cho ngài có nạm nhiều viên ngọc quý sáng ngời đã được ngài đem bán ngày 18.11.1964 để lấy tiền giúp kẻ nghèo và từ đây ngài chỉ đội mũ như các Giám mục.

Ngày 15.9.1970, ngài đã giải tán các đội lính hầu trong Vatican và chỉ để lại vệ binh Thụy Sĩ để gác cổng.

Nhưng ngoài những việc nói được là nhỏ nhất ấy, Hội Thánh và thế giới còn chứng kiến không biết bao nhiêu là công cuộc cải cách được thực hiện dưới triều đại của ngài, một triều đại kéo dài 15 năm giữa lòng một thế kỷ có nhiều thay đổi lớn lao kỳ diệu xen lẫn với những khó khăn, khủng hoảng thật trầm trọng.

Chẳng hạn ngài đã nâng tổng số Hồng Y Ðoàn lên đến 120 vị và quyết định các vị Hồng Y từ 80 tuổi trở lên không được quyền ứng cử và bầu cử Tân Giáo hoàng nữa. Ngài đã quốc tế hóa giáo triều: trước đây, các Tòa Bộ thường do những vị có quốc tịch Ý điều khiển, nay ngài quyết định chọn nhiều vị xuất sắc trong hàng giáo phẩm khắp nơi đưa về Roma phục vụ Tòa Thánh phụ trách các Tòa Bộ có tính cách then chốt ở Vatican, chẳng hạn:

* Ðức Hồng Y Villot (Pháp): Quốc Vụ Khanh Toà Thánh.
* Ðức Hồng Y Franje Seper (Nam Tư): Thánh Bộ Ðức Tin.
* Ðức Hồng Y Agnelo Rossi (Braxin): Thánh Bộ Phúc Âm hoá.
* Ðức Hồng Y Bernadin Gantin (Dahomey): Ủy ban Tông toà Corunum và Công lý Hòa bình.
* Ðức Hồng Y Jan Willebrands (Hoà Lan): Văn phòng Giáo hội Hiệp nhất.
* Ðức Hồng Y Eduard Pironie (Achentina): Thánh Bộ Tu sĩ.
* Ðức Hồng Y Gabriel Carrone (Pháp): Thánh Bộ Chủng viện và Ðại học.
* Ðức Hồng Y R. Knox (Úc đại Lợi): Thánh Bộ Bí tích.
* Ðức Hồng Y Maurice Roy (Canada): Hội đồng Giáo dân.
* Ðức Hồng Y J. Lourdasamy (Ấn Ðộ): Tổng thơ ký Thánh bộ Phúc Âm hoá.
* Ðức Hồng Y L. Rubin (Ba Lan): Tổng thơ ký Thượng Hội đồng Giám mục.

Ðể hỏi ý kiến dân Chúa, ngài đã thiết lập Thượng hội đồng Giám mục gồm các thành viên do Hội đồng Giám mục mỗi nước đề cử và một số do chính Ðức Giáo Hoàng chỉ định. Hội đồng này ba năm họp một lần để góp ý kiến cho Ðức Giáo Hoàng về các vấn đề đang sôi bỏng trên thế giới hoặc quan trọng trong Hội Thánh.

Và chắc không ai quên được những chuyến công du trong đời ngài:

Sau sáu tháng khi nhậm chức, ngày 4.1.1964, ngài đã đi hành hương Thánh địa kính viếng nơi Chúa Giêsu Thầy Chí Thánh đã sống, đã hy sinh để thành lập Hội Thánh, và cũng là nơi sôi bỏng nhất ở Trung Ðông. Ðây là lần đầu tiên hàng rào thù địch giữa Jordanie và Israel đã mở cho một vị Quốc khách đi bên này sang bên kia.

Cũng năm ấy ngài sang Bombay (Ấn Ðộ) dự Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần thứ 38. Ngày 4.10. năm sau, ngài qua Liên Hiệp Quốc đọc diễn văn kêu gọi hoà bình trước 117 phái đoàn đại diện cho 117 quốc gia hội viên. Năm 1967, ngài sang Fatima dịp kỷ niệm 50 năm Ðức Mẹ hiện ra. Năm 1968, ngài lại đến Bogota (Colombia) tham dự Ðại Hội các Giám mục Châu Mỹ Latinh tổ chức tại Medelli. Sang năm 1969, ngài đã liên tiếp thực hiện hai chuyến công du viếng thăm Genève (Thụy sĩ) và Ouganda (Châu Phi). Trong cuộc viếng thăm Genève ngày 10.6, ngài đọc diễn văn tại hội nghị thứ 50 của Tổ chức Lao động Quốc tế thuộc Liên Hiệp Quốc.

Rồi từ ngày 31.7 đến 2.8, giữa lúc biến cuộc tang thương Biafra đang tiếp diễn, ngài đã đến Kampala, thủ đô Ouganda, tham dự Ðại Hội đồng Giám mục Phi Châu. Ðến đâu ngài cũng thực hiện sứ mệnh của một vị tông đồ đi rao giảng Tin Mừng theo như lời ngài đã tâm sự: "Tôi muốn thấy tận mắt, sờ tận tay những đau khổ của con người". Nổi bật nhất là chuyến công du dài 46.400 khi sang Á châu và Ðại Dương Châu vào năm 1970. Cuộc du hành này bắt đầu từ sáng sớm ngày 26.11 tại Ý. Ngài đã ghé thăm Téhéran (Ba Tư), Dacca (Pakistan), bay qua vòm trời Việt Nam, đến Manila (Phi luật Tân), tham dự Ðại Hội các Giám mục Á châu. Sau đó ngài đi thăm Samca, ghé thăm Sydney (Úc) và chủ toạ phiên họp Hội đồng Giám mục Châu Ðại Dương được tổ chức tại đây. Ngài cũng đi viếng thăm Djakarta (Nam Dương), Hồng Kông và Colombô. Ngày 5.12 ngài trở về Roma. Trên suốt quãng đường hành trình ngài đã tiếp xúc với dân chúng, chia sẻ những đau khổ và hy vọng của họ; ngài đã nói lên tiếng nói của bác ái và công bình và kêu gọi sự tương trợ quốc tế.

Chính ngài đã lập nên quỹ Phát triển quốc tế và bán các dinh thự của Tòa Thánh để bỏ vào đó hầu giúp những người nghèo khổ trong thế giới thứ ba được phát triển toàn diện. Tất cả những đường hướng ấy đã được ngài đúc kết trong thông điệp: "Phát triển các dân tộc" công bố vào ngày lễ Chúa Phục Sinh 26.3.1967.

Là một Giáo Hoàng của hòa bình, ngài đã biến ngày 1.1 dương lịch hằng năm thành ngày Quốc tế Hòa bình, có mục đích giáo dục, học tập, cầu nguyện và hành động cho hòa bình (kể từ năm 1968); sáng kiến này đã được tổ chức Liên Hiệp quốc tán đồng và trên 50 quốc gia tích cực hưởng ứng. Rồi suốt cuộc đời, ngài đã tích cực nỗ lực vận động hòa bình cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong số đó có dân tộc Việt Nam chúng ta.

Là một Giáo Hoàng của sự hiệp nhất, ngài đã thành lập văn phòng liên lạc với các Kitô hữu ngoài Công giáo. Ai có thể tưởng tượng được những nghi thức long trọng và cảm động tại Vương Cung Thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành lúc Ðức Phaolô VI ôm hôn Thượng phụ Giáo chủ Athénagoras. Tưởng cũng nên biết rằng trước đó vào ngày 7.12.1965, Ðức Phaolô VI ở Roma và Ðức Athénagoras I ở Istabum cùng một lúc đã tuyên bố xóa bỏ án "vạ tuyệt thông" lẫn nhau, một nguyên do phát sinh sự ly khai năm 1054, khiến cho hơn 900 năm chia rẽ oán hận nhau được xóa nhoà. Năm 1973, khi Ðức Thượng phụ Shenouda của Hội Thánh Marcô, Ai Cập đến thăm Tòa Thánh thì điều đó có nghĩa 1500 năm cách trở đã được vượt qua. Mới đây vào năm 1976, Ðức Phaolô VI đã gây chấn động khắp nơi bằng cử chỉ qùy xuống hôn chân vị Ðại diện Giáo hội Chính thống trong lễ kỷ niệm 10 năm hủy bỏ sắc lệnh tuyệt thông.

Ðối với các Giáo hội Kitô khác, ngài đã bước được những bước rất tốt đẹp, Ngày 23.3.1966 tiến sĩ Ramsey, Tổng giám mục Canterbury, Giáo chủ Anh giáo đã đến thăm Tòa Thánh. Và năm 1969, Ðức Phaolô VI đã đến Genève (Thụy sĩ) thăm trung tâm Ðại kết các Tôn giáo, nơi quy tụ 234 Giáo hội Tin lành, Anh giáo, Chính thống giáo. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm Genève từ khi nơi này trở thành Trung tâm Giáo hội Tin lành (thế kỷ XVI). Ngày 2.10.1970, chính ngài đã chủ tọa lễ cầu nguyện khai mạc Hội nghị Ðại hội Tôn giáo gồm: Anh giáo, Presbyterian, Methodist, Chính thống.

Là một vị Giáo Hoàng của đối thoại, Ðức Phao lô VI đã thành lập văn phòng liên lạc với những người vô thần. Ngài đã tiếp đón nhiều chính khách cao cấp của các nước Chủ nghĩa xã hội như Chủ tịch Nikolai Podgorny của Liên Sô (1967). Chủ tịch của Roumanie (1974), ông Janos Kadar, Bí thư thứ nhất của ban chấp hành Trung ương đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Hungari, và ông E. Giesek, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (1977).

Riêng đối với Việt Nam, Ðức Phao lô VI đã gọi là một "ngày đáng ghi nhớ" lúc ông Xuân Thủy, đại diện Chính phủ đầu tiên của Việt Nam đến Vatican ngày 14.2.1973. Ba tháng sau, Ðức Phaolô VI tiếp kiến ông Nguyễn Văn Hiếu, trưởng phái đoàn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam ở Hội nghị La Celle-Saint-Cloud. Trước đó vào tháng 2.1971, Vatican đã tiếp bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời và là trưởng phái đoàn của Chính phủ này tại Hội nghị Paris. Ðức Phaolô VI chỉ nói cách khiêm tốn về "một cuộc dấn thân theo sức chúng ta" để vãn hồi hoà bình chính đáng và lâu dài, bảo đảm cho con người được sống trong tự do hạnh phúc xứng với mọi dân tộc.

Ngài đã gởi một phái bộ do Ðức Tổng Giám mục Sergiô Pignedoli dẫn đầu sang Ba Lan và Liên Sô năm 1970. Tháng 2 năm sau, đặc phái viên của ngài là Ðức Tổng Giám mục Agostinô Casaroli được gởi sang Matcova, khởi đầu cuộc Hội đàm với nhà cầm quyền Liên Sô. Cuộc bang giao giữa Tòa Thánh với Cộng Hoà Nam Tư cũng đã được tái lập trên cấp bậc Sứ thần và Ðại sứ từ 15.8.1970. Mối quan hệ với các nước Chủ nghĩa Xã hội ở Ðông Âu và sinh hoạt của Hội Thánh tại các nước ấy cũng được bình thường hoá...

Khuôn khổ chật hẹp ở đây không cho phép nói lên tất cả những hoạt động canh tân của Ðức Phaolô VI, nhưng lịch sử rồi đây sẽ ghi chép lại tất cả mọi nỗ lực, nhẫn nại, can đảm và thành tín của ngài trong sứ mệnh thực hiện Công đồng Vatican II.

5. Tại sao người Công giáo chưa canh tân được Hội Thánh và thế giới

* Canh tân là trở về nguồn. Công thức canh tân: Làm cho người công giáo trở lại đạo công giáo. Làm cho người Kitô hữu trở lại với Chúa Kitô. Mới nghe, con ngạc nhiên, nhưng ngẫm nghĩ lại, con sẽ thấy đúng như vậy. Một câu nói của thánh Gandhi nhiều lần khiến ta suy nghĩ: "Tôi mến Chúa Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô." (ÐHV 634).

* Mỗi ngày "Phúc Âm hóa" lại trí óc và quả tim con, bằng cách đọc, suy ngắm, say sưa uống lấy lời hằng sống, để từ từ Phúc Âm thấm nhuần sâu xa vào mỗi tế bào, mỗi thớ thịt của con, đó là canh tân, cách mạng chắc chắn nhất (ÐHV 646).

* Kể từ hôm nay, từ nét mặt con, từ cử chỉ con, từ sự thinh lặng, từ quả tim con, từ tâm hồn con, từ mọi hành động, từ cách sống, từ cách chết của con, phải tỏa ra một ánh sáng của Chúa hiện diện trong con, qua những nơi con đi, vào những người con gặp (ÐHV 649).

* Nếu con chỉ "giữ đạo", con chưa canh tân. Ma quỉ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế giới ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến cho thế giới và đưa thế giới về với Chúa (ÐHV 650).

* Hàng rào kiên cố nhất, không phải là chiến lũy, không phải hàng rào điện tử, đó là "hàng rào hờ hững" của con: "Ai chết mặc ai! Ai đói khổ mặc ai" Sụp đổ, thoái hóa cũng mặc! Như thế được rồi:" làm sao vượt nổi! (ÐHV 652).

* Canh tân xã hội bằng con người đã canh tân trung thực theo Phúc Âm. Ðức tin sẽ đem lại một giá trị mới cho công việc bổn phận của họ. Người ta không biết họ đâu? Không nghe họ nói, nhưng người ta công nhận có sự gì đổi mới, tự nhiên thấy nếp sống đẹp hơn, bầu không khí phảng phất hương vị mới lạ (ÐHV 653).

* Không phải bước nhanh, bước gấp, nhưng bước vững, bước đúng con sẽ tiến xa. Không phải hô hào thúc đẩy cho thế giới tiến, nhưng chính con phải khởi sự tiến lên (ÐHV 654).

Chúng ta nên suy nghĩ những lời sau đây của một cán bộ Cộng sản viết trong báo "Tự Do" xuất bản tại Fribourg, Thụy sĩ:

"Phúc Âm là một lợi khí mạnh mẽ để canh tân xã hội hơn những nguyên tắc Mác-xít của chúng tôi; nhưng dù vậy, sau cùng chúng tôi sẽ là người chiến thắng.

"Vì tuy chúng tôi chỉ là một nhóm nhỏ trong khi các anh, những người Công giáo các anh có cả mấy triệu người. Nhưng các anh chỉ sống theo danh từ, còn chúng tôi những người cộng sản, chúng tôi thực tế hết sức. Chúng tôi quyết định phải đạt tới mục đích nên chúng tôi biết tìm những phương thế để đạt tới mục đích đó.

"Những quyền lợi và đồng lương, chúng tôi chỉ giữ một phần cần thiết, và chúng tôi hy sinh phần còn lại để bỏ vào việc truyền bá chủ nghĩa.

"Chúng tôi cũng để tất cả thời giờ nhàn rỗi và một phần những ngày nghỉ việc dành cho công cuộc truyền bá ấy.

"Nhưng các anh, trái lại, chỉ để một thời giờ hẹp hòi và một chút ít tiền của trong việc phổ biến Phúc Âm của các anh.

"Ai sẽ đi vào những giá trị cao siêu của Phúc Âm nếu chính mình các anh không sống theo đó, không tuyên truyền nó, nếu các anh quá hẹp hòi trong việc xử dụng thời giờ và tiền bạc?

"Các anh hãy tin đi, chúng tôi sẽ thắng, bởi vì chúng tôi rất tin tưởng vào Chủ nghĩa Cộng sản của chúng tôi, và chúng tôi đang sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả tính mạng của chúng tôi để cho công bằng xã hội được thiết lập.

"Còn các anh, các anh sợ phải bẩn tay".

Chúng ta nên tự vấn: những lời này đáng được nói với chính bản thân tôi. Thử hỏi tôi đã đọc, đã học tập Công đồng Vatican II lần nào chưa? Ðược nhiều hay ít? và cố gắng thực hiện được mấy phần?
-----o0o-----

28- Cuộc Sống Mới

1. Cuộc chiến đấu cuối cùng

* Ðối với người không biết đích, giờ chết là giờ thất vọng, vì mất tiền tài, mất khoái lạc, mất bằng hữu; trước mắt họ, toàn tối tăm, hư vô sụp đổ. Ðối với con, cuối con đường hy vọng tràn ngập ánh sáng (ÐHV 665).

* Trước muôn ngàn thử thách đau khổ, con hãy sốt sắng, tin tưởng và đọc nhiều lần: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy." Bí quyết can đảm của người Kitô hữu (ÐHV 674).

- Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen!

Vừa đưa bàn tay mặt nắm chặt lấy tay trái, thánh Hialariô (+371) vừa khẩn thiết kêu xin Chúa và tuyên xưng vào cuộc sống mai sau.

Chúng ta biết ngài là một thầy dòng khổ tu tại Palestina chuyên đời cầu nguyện và hy sinh khổ hạnh. Nhưng đến giờ phút cuối cùng, trước khi nhắm mắt, ngài đã phải đương đầu với một chước cám dỗ rất nặng hầu như ngã lòng trông cậy vào Chúa nhân từ và quá đỗi khiếp sợ tòa phán xét nên đã phải cầu nguyện tha thiết như trên.

Còn chúng ta, chúng ta có năng nghĩ đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình không?

2. Cái nhìn của thánh Aloysiô Gonzaga

* Nghe tiếng cha mẹ đến, đứa bé ở nội trú bỏ tất cả, không tiếc một cái gì để chạy theo cha mẹ. Con đừng dính bén bất cứ đồ vật gì nơi tạm trú này (ÐHV 671).

* Máy điện tử tối tân nhất tên là "Muôn đời"; con hãy dùng nó để chọn quyết định quan trọng nhất của đời con. Muôn đời thù ghét trong hỏa ngục? Muôn đời yêu thương trên Thiên Ðàng? (ÐHV 684).

* Cái gì không mang nhãn hiệu "Muôn đời" là đồ giả. (ÐHV 687).

Một hôm, ban giáo sư trường muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ở sân, bèn đặt một câu hỏi: "Nếu anh được biết anh sắp chết trong một giờ nữa thì anh sẽ làm gì?

Có nhiều câu trả lời khác nhau:

- Tôi sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.
- Tôi sẽ dọn mình xưng tội.
- Tôi sẽ tìm gặp cha mẹ và người thân lần cuối cùng.

- Còn tôi, nếu tôi biết tôi sắp chết, tôi vẫn tiếp tục chơi!.
Câu trả lời ấy của cậu Aloysiô Gonzaga làm ban giáo sư vô cùng bỡ ngỡ.

- Tại sao trước giờ phút nghiêm trọng như vậy mà anh cả gan tiếp tục chơi?

- Vì Chúa dạy phải luôn luôn sẵn sàng, mà bổn phận hiện giờ của tôi là chơi nên tôi cứ tiếp tục chơi. Thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại này đối với tôi là chơi, nên tôi chơi là làm đẹp lòng Ngài vậy!

Tại sao chỉ là một thiếu niên mà Aloysiô Gonzaga lại có lòng đạo đức khôn ngoan đến thế? Ðó là nhờ công giáo dục của người mẹ thánh thiện, của môi trường học đường. Cậu thường nói: "Tôi nhìn mọi sự và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh "đời đời", cái nhìn không có giá trị "đời đời", không xây dựng cuộc sống "đời đời", không hướng dẫn ta đến cùng đích "đời đời" thì đối với tôi đó là hư vô cả".

3. Một cuộc ra đi bình an

* Một lời kinh gây tin tưởng cho con cái Chúa, nhưng vì quá quen, quá thường, con không ý thức tất cả ý nghĩa thế mạt, mà chỉ người Công Giáo được mặc khải: "Hằng sống hằng trị muôn đời. Amen." (ÐHV 673).

* Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, con hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: "Và người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng." (ÐHV 679).

* Thái độ của giáo dân buổi sơ khai chấp nhận sự chết là cả một cuộc cách mạng. Chứng tích ấy khiến thế giới La Mã phải tin ở tình yêu Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu (ÐHV 685).

Cha Franz Rosebaum là một linh mục thuộc Dòng Lời Chúa, quốc tịch Ðức, đã từng phụ trách một nhóm truyền giáo ở Trung quốc; về sau, ngài được Tòa Thánh tín nhiệm giao phó trọng trách làm Hiệu trưởng trường Giáo hoàng Học viện thánh Phêrô tại Roma.

Các linh mục thuộc 40 quốc tịch khác nhau đã sống ở Học viện thánh Phêrô đều đồng thanh ca tụng và mến phục tinh thần đạo đức, hy sinh, gương mẫu về mọi mặt của ngài.

Năm 1961, ngài mắc phải chứng bệnh ung thư ruột. Dù qua nhiều cuộc giải phẫu, bệnh tình vẫn cứ nặng dần; tuy thế, ngài vẫn bình tĩnh và cố gắng theo nề nếp sinh hoạt của Học viện, mặc dù đã có cha Schneider thay thế chức vụ cho. Ngài đã tỏ ra tin tưởng, can đảm và vui vẻ cho đến giây phút cuối cùng.

Hôm ấy, trong bầu khí tĩnh lặng của bệnh viện do các Nữ tu Dòng Thánh Linh điều khiển, cha Franz Rosebaum lên cơn hấp hối. Ngài đưa mắt nhìn các thân nhân đang vây quanh ngài và xin mọi người cất lên lời kinh "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Câu cuối cùng vừa dứt, cha Rosebaum lặng lẽ ra đi bình an.

4. Ðầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu

* Hạt lúa gieo xuống đất không chết, trong nó sẽ phát xuất sự sống phong phú mới mẻ hơn. Hạt lúa nấu thành cơm nuôi nhân loại cũng không chết, nó tươi nở trong một cuộc sống khác đẹp hơn, cao quí hơn. (ÐHV 688).

* Từ đây trên các "vòng hoa phúng điếu", xin con đừng để hai chữ "phân ưu" nữa. Trong các thư từ con đừng để hai chữ "quá cố" nữa, vì họ "đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại" và "đang hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa". (ÐHV 689).

* Ðối với Kitô hữu, không có người chết. Tất cả các kẻ chết của chúng ta đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi thông hiệp với nhau trong đức tin (ÐHV 690).

Thuộc quốc tịch Ðức, Vath là một thương gia có hạng ở Thượng Hải (Trung quốc). Giữa lúc công việc kinh doanh đang hồi phát đạt, ông Vath bỗng nghe tiếng Chúa gọi. Và vị thương gia giàu có đó đã can đảm dẹp tiệm mà tận hiến cuộc đời mình cho Chúa. Ông xin vào học trong Chủng viện Thánh Benađô dành cho những người tu muộn tại Roma. Không phải ông chán đời, nhưng ông muốn dấn thân để phục vụ đời cách đắc lực hơn. Và ít năm sau, ông được phong chức linh mục. Sau đó, Ông trở lại Hồng Kông, đầu tư cuộc đời vào việc phục vụ dân nghèo Trung quốc đang sống chen chúc nhau ở trên bán đảo chật hẹp ấy.

Phương pháp hoạt động của cha là thành lập Caritas (Hội Bác ái cứu trợ Công giáo) với những lớp bổ túc văn hóa, những thư viện, những trường dạy nghề, trường kỹ thuật, quán cơm bình dân, lưu xá rẻ tiền cho sinh viên học sinh hoặc các công nhân, văn phòng tiếp đón người tị nạn từ Trung quốc Lục địa... Và chỉ sau một thời gian, Caritas Hồng Kông đã trở thành mô phạm cho các Caritas trên thế giới, nhờ tài kinh doanh của cha Vath được đem ra khai thác đúng chỗ và triệt để (cựu thương gia ở Thượng Hải). Có điều là giờ đây ngài không kinh doanh cho bản thân ngài nữa, mà là kinh doanh cho các người nghèo để thăng tiến cá nhân và gia đình họ.

Vì công lao của ngài quá lớn nên Tòa Thánh đã tặng cho ngài danh vị: Giám chức (Ðức Ông).

Về sau, ngài được bầu làm Giám đốc Caritas Ðông Nam Á và cuối cùng, ngài giữ luôn chức vụ Chủ tịch Caritas quốc tế trong những năm 1971, 1972, 1973. Chính lúc này ngài lại mắc bệnh ung thư. Sau mấy tháng điều trị, ngài đã nhắm mắt lìa đời và được an táng tại Ðức.

Sau khi ngài từ trần, bạn bè lẫn giáo dân ai ai cũng bùi ngùi xúc động: Vì mặc dù trong cơn bệnh đang hoành hành ác liệt, ngài vẫn bình tĩnh ghi băng trao gởi đến họ, đến các kẻ kế nghiệp, đến các nhân viên cộng sự, những trối trăn đượm đầy đức tin và bình an. Ngài nói mình vẫn luôn luôn kiên vững trong đức tin, liên lỉ kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Tử nạn, cũng như không ngừng hy vọng vào tình yêu Thiên Chúa mà đợi chờ ngày sống lại hiển vinh. Ngài đã ân cần nhắn nhủ, động viên từng người hăng say toàn hiến đời mình cho nhiệm vụ và thực thi bác ái.

Ngài tạm biệt mọi người trong lúc tâm hồn tràn ngập tình tri ân cảm mến. Quả là một ơn Thiên triệu và một cuộc đời kỳ diệu.

5. Bài học hư vô

* Con nhìn thấy những giọt nước lã chã rơi trong một chiều đông. Mỗi ngày bao nhiêu người cùng vào cõi đời đời, như hạt nước kia không ai để ý, và một giây phút nào đó, một hạt nước rơi ấy chính là con (ÐHV 666).

* Nhìn bao nhiêu thân ngọc mình ngà, minh tinh, hoa hậu đã chịu số phận thối tha, hư nát, con hiểu được tiếng "Hư vô" và con tự rút lấy bài học (ÐHV 675).

Là con trai của công tước xứ Gandie, nước Tây Ban Nha, Phanxicô Borgia (1510-1572) mồ côi mẹ lúc 10 tuổi và được giao phó cho một người cậu đang làm Tổng Giám mục thành Saragesse nuôi dưỡng, giáo dục. Năm lên 18 tuổi, chàng được bước chân vào hoàng cung của ông Charles Quint, kết hôn cùng cô Eléonore de Castre và sinh hạ được 5 người con. Sau đó chàng được đắc cử làm cận vệ của hoàng hậu, tương lai huy hoàng mở ra trước mắt.

Nhưng đùng một cái, biến cố sau đây đã làm đảo lộn cuộc đời chàng. Số là hoàng hậu Isabelle, một mỹ nhân sắc nước hương trời vừa hóa ra người thiên cổ. Phanxicô có trọng trách đưa thi hài bà đến an táng tại lăng tẩm nhà vua Genade. Ðến nơi, lúc mở nắp quan tài để giao nhận đúng là thi hài của hoàng hậu Isabelle, Phanxicô đã sửng sốt rùng mình trước một thân xác thối rình, giòi bọ rúc rỉa... Và cảnh tượng ấy đã khiến chàng suy nghĩ thấm thía về cuộc đời tạm gửi ở trần gian để rồi đi đến quyết định: "Từ nay mọi danh vọng của trần thế và mọi lạc thú của nó chẳng còn dính dáng gì đến Phanxicô này nữa!". Chàng đệ đơn lên hoàng đế xin rút lui khỏi triều đình. Ðáp lời, vua Charles Quint đặt chàng làm phó vương xứ Catalogne. Ở đây, vừa tỏ ra là một viên chức gương mẫu tài ba, Phanxicô vừa đeo đuổi một cuộc sống tu trì cầu nguyện. Ít lâu sau, cha của Phanxicô qua đời, ông trở thành công tước xứ Gandie và là sáng lập viên của một bệnh viện và nhiều tu viện khác trong xứ. Khi người bạn đường là bà Eléonore de Castre nhắm mắt, ông xin gia nhập Dòng Tên và 17 năm sau, trở thành vị Tổng quyền thứ ba của Dòng.

Sau một chuyến truyền giáo, ngài ngã bệnh tại Ferrare và qua đời năm 1572, thọ 62 tuổi.

6. Nhật ký của một bà mẹ ung thư

* Người ta hối tiếc và than van: "Ðời tàn"; ngược lại, con phấn khởi và reo lên: "Niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô sắp đến." (ÐHV 667).

* Người đời nói: "Mỗi ngày gần mồ thêm một bước." Con phải nói: "Mỗi ngày gần cửa Thiên Ðàng hơn một bước." (ÐHV 668).

* Giữa những thử thách bên trong bên ngoài khủng khiếp nhất, con hãy nhớ lời sách Khải Huyền: "Và Người sẽ lau sạch nước mắt họ, chết sẽ không có nữa, phiền muộn, kêu gào và khó nhọc sẽ không còn nữa, vì các điều cũ đã qua" (ÐHV 682).

* Nhìn cuộc đời chóng qua không phải để mà yếm thế, bi quan, buông trôi... nhưng để phấn khởi, hăng say tranh đua với thời gian. Người ta bảo thời giờ là vàng, con hãy xác tín: thời giờ là Thiên Ðàng, thời giờ là Tình Yêu (ÐHV 686).

Một lần nữa hai vợ chồng trẻ lại lo âu đưa nhau đi khám bệnh ở phòng mạch bác sĩ. Lần này viên bác sĩ tế nhị cho họ hiểu là bệnh ung thư của bà đã đến giai đoạn trầm trọng không thể chữa được. Bác sĩ an ủi, động viên tinh thần họ và cho toa mua ít thuốc để giảm cơn đau.

Thương thay hai anh chị không phải là người sung túc. Ðã nghèo lại có tới 6 mặt con thơ nên cuộc sống thật là lam lũ. Tuy nhiên, gia đình vẫn hạnh phúc êm đẹp, vì cả hai đều thương và tôn trọng nhau, tạo nên một bầu khí chan hoà hạnh phúc, đạo đức. Người vợ tên là Têrêxa, anh là Giuse, cả hai đang ở trong một quốc gia tân tiến nhất: Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Sau nhiều ngày cùng lo âu đau khổ, hai vợ chồng đã lấy lại được bình an và can đảm. Họ nhìn thẳng vào thực tế với con mắt đức tin, và đã có những phản ứng thật độc đáo, phát xuất từ niềm tin yêu, hy vọng vốn đang cháy trong lòng họ. Chính bà vợ đã viết tất cả vào cuốn nhật ký, ta hãy lần giở từng trang để chiêm ngắm tâm hồn một phụ nữ quả cảm, một gia đình Công giáo sáng chói và một cộng đồng dân chúng biết yêu thương nhau:

".. Chồng tôi đã đi đến các nhà hàng xóm, bạn bè và nói với họ: Nhà tôi mắc bệnh nặng, mấy lâu nay chúng tôi đã phấn đấu điều trị. Nhưng vừa rồi, bác sĩ đã cho biết đã đến giai đoạn nguy hiểm khó vượt qua. Tôi xin các bạn thương nhà tôi, tạo bầu không khí đầm ấm nâng đỡ nhà tôi...

"Nghe những lời ấy mọi người rất xúc động. Từ đấy chúng tôi được làng xóm và bạn bè quý yêu, mỗi người đều cố tạo cho tôi được hạnh phúc. Từ sáng sớm đã có người đến giúp cho các con tôi ăn để đi học, có người đến đi chợ hộ cho tôi, có bà giặt bộ quần áo, có ông đến cắt cỏ tưới hoa trong vườn, có chị đến lau chùi nhà, có người thỉnh thoảng lại gửi hoa cho thơm tho nhà cửa... Ngoài những sự nâng đỡ bên ngoài ấy, tình cảm của mọi người đối với tôi và của bản thân tôi đối với họ cũng đổi hẳn. Ai cũng yêu thương tôi, đi lại thăm viếng trò chuyện, mang báo chí lại cho tôi đọc giải trí...

Phần tôi, tôi cũng muốn dành những gì là tốt đẹp nhất, yêu quý nhất cho chồng tôi, con tôi và bạn bè của tôi.

"Chồng tôi họp mấy đứa con lại, anh nhắn nhủ lũ trẻ: "Các con yêu, mẹ các con ốm nặng, chắc không còn được ở lâu với cha con ta, các con hãy cầu nguyện cho mẹ, và cha cũng như các con, chúng ta sẽ làm tất cả những gì có thể được để mẹ chúng con được vui luôn. Sức mẹ yếu dần, từ đây cha và các con đừng để mẹ phải vất vả; chúng ta sẽ làm lấy công việc mà các con làm được, tùy sức của mỗi đứa, như dọn bàn, rửa chén, dọn giường, quét nhà, giặt ủi". Chúng đã hiểu và làm đúng như lời cha dặn. Những lúc rảnh rỗi, chúng quấn quít quanh tôi, kiếm chuyện làm cho tôi vui. Và lòng tôi cảm thấy hân hoan, quên đi bao nỗi nhọc nhằn, đau đớn.

"Bệnh tình của tôi ngày càng thêm trầm trọng. Tôi đã bàn với chồng tôi phải giải quyết tương lai cho các con. Sau nhiều ngày bàn luận, tôi đã thuyết phục được chồng tôi chấp nhận đề nghị của tôi. Hôm sau, chúng tôi đã thuê đăng một nhật báo mẫu tin như sau:

"Tôi là mẹ của 6 đứa bé, chồng tôi là công nhân viên, tôi nhiễm bệnh ung thư đã đến giai đoạn trầm trọng. Ðược sự chấp thuận của chồng tôi, tôi xin đề nghị với các bạn khắp nơi: ai muốn nhận nuôi mỗi gia đình một đứa con của chúng tôi (vì gia đình của chúng tôi quá neo đơn, đói khổ), xin cứ liên hệ với chúng tôi.

"Nhưng vì yêu thương các con tôi, tôi xin đặt điều kiện thế này:

1- Phải cho các con tôi giữ đạo sốt sắng, giáo dục chúng theo tinh thần Phúc Âm.

2- Phải xem chúng như con ruột trong gia đình, cho chúng học hành tới nơi tới chốn, tùy khả năng trí tuệ của chúng.

3- Không cắt đứt tình cảm gia đình của chúng, cho chúng thơ từ thăm viếng cha chúng, cũng như giữa chúng với nhau. Hàng năm đến kỳ nghỉ phép của cha chúng. Xin cho tất cả 6 anh em đều được sum họp dưới mái gia đình, đi chơi với nhau trong một vài tuần nghỉ hè của chồng tôi.

4- Nếu sau một thời gian, những điều kiện trên không được thỏa mãn, thì tôi hoặc chồng tôi xin được phép rút các cháu về".

"Nhiều gia đình cảm kích trước sự can đảm và hoàn cảnh đáng thương của tôi nên thư từ tới tấp cho tôi để hỏi thêm các chi tiết; có gia đình từ xa đến thăm viếng, tiếp xúc chuyện trò với các con tôi.

"Tôi và chồng tôi đã thân mật giải thích cho các con tôi hiểu, dĩ nhiên lòng không khỏi xót xa đau đớn. Các con tôi hỏi lại ba má cách cặn kẽ rồi đứa nào cũng vui vẻ chấp nhận. Ai có thể tả được nỗi lòng của mỗi người trong chúng tôi trước phút chia ly!

"Tôi đã thu xếp hành lý, âu yếm căn dặn từng đứa và cho mấy đứa lớn đi trước.

"Cám ơn Chúa đã cho các con tôi gặp những gia đình rất bác ái, đạo đức. Mỗi tuần họ đều biên thư cho chúng tôi. Họ cũng bảo các con tôi biên thư nói về sinh hoạt của chúng tại gia đình cha mẹ đỡ đầu của chúng. Các con tôi đều vui vẻ thoải mái, trừ một đứa không mấy thích hợp; nhưng ông bà đỡ đầu nó đã thông cảm và đã trao nó cho một gia đình khác. Lần này nó vui sống và rất hài lòng hoan hỉ.

"Ðể được thấy tận mắt nơi các con sinh hoạt, tôi gắng sức đi thăm một vòng tất cả bọn chúng, gửi gắm cho các ông bà và hết lòng cám ơn họ trước khi tôi yếu liệt không còn có thể đi lại được nữa.

"Ðứa con út đã lên đường cuối cùng, khi tôi hầu như đã hoàn toàn liệt hẳn. Từ đây, láng giềng và bạn bè lại càng thăm viếng chăm sóc tôi chu đáo hơn. Từ sáng đã có chị em lại chải tóc cho tôi, nâng đỡ tôi trong mọi việc...

"Ðây là những hàng cuối cùng của cuốn nhật ký, tôi không còn sức để viết thêm được nữa. Tôi cảm tạ Chúa trong niềm tin vững vàng. Tôi hiến dâng tất cả. Tôi biết Chúa là Cha nhân lành yêu thương con cái tôi còn hơn muôn vàn lần chính tôi yêu thương chúng nó. Tôi tin rằng tôi đang tiến dần đến ánh sáng hạnh phúc, một hạnh phúc còn chói lòa gấp triệu lần hạnh phúc ở trần gian này. Tôi chấm dứt nhật ký trong lời tạm biệt. Hẹn gặp lại bà con anh em trong chốn hạnh phúc vĩnh viễn. Tôi chấm dứt trong niềm hy vọng. Tôi chấm dứt trong niềm cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong niềm cảm mến và yêu thương mọi người".

7. Ðức Phaolô VI suy niệm về sự ra đi của mình

* Trên Thiên Ðàng, người tông đồ mới thôi lao nhọc. Nhưng ngay ở Thiên Ðàng, người tông đồ vẫn tiếp tục cứu giúp trần gian. (ÐHV 677).

* Người tông đồ không chết, sự sống không tiêu diệt, chỉ biến đổi: "Hiện giờ ta thấy, nhưng ở trong gương, cách mường tượng, bấy giờ thì tận mắt, diện đối diện." (ÐHV 678)

Trên đường hy vọng, chúng ta đã lấm phen gặp vị lữ hành cao cả này: Ðức Giáo Hoàng Gioan Baotixita Montini.

Sau lúc ngài về nhà Cha một thời gian, thì vị Bí thư trong suốt 25 năm của ngài, linh mục Pasquale Macchi, đã lục soạn các giấy tờ, bản thảo, nhật ký và đã tìm thấy một bài suy niệm dài về sự chết của ngài. Ở đây chỉ xin trích một vài đoạn ngắn:

"Finis venit, venis finis!". Giờ cuối cùng, vâng, giờ cuối cùng đang đến.

"...Nhưng giờ, trong buổi hoàng hôn đầy ơn soi sáng ngoài ánh sáng cuối cùng của buổi chiều tà, điểm báo của một bình minh vĩnh cửu, một tư tưởng khác đã xâm chiếm trí óc của tôi; đó là nỗi băn khoan làm sao lợi dụng được cái giờ 11; đó là sự khẩn trương phải làm việc gì quan trọng trước khi quá trễ. Làm thế nào để sửa chữa những việc làm sai trái, làm sao để bù lại những thời giờ đã lãng phí, làm sao để chiếm lại cơ hội cuối cùng này để chọn "unum necessarium", điều cần thiết duy nhất?

"Lạy Chúa, con theo Chúa và con nhận thức rằng con không thể rút lui nhẹ nhàng ra khỏi sân khấu trần gian này được. Cả trăm ngàn sợi dây nối liền con với gia đình nhân loại, trăm nghìn mối dây ràng buộc con với cộng đoàn Hội Thánh. Những sợi dây ấy tự chúng sẽ đứt đi, nhưng con không thể quên rằng những mối dây liên hệ ấy đòi hỏi con một phận sự cuối cùng, "discessus pius", một sự ra đi đạo đức. Con nhớ lại Chúa Giêsu đã tạm biệt sân khấu trần gian này thế nào. Con ghi nhớ Người đã luôn luôn báo cuộc khổ nạn của Người thế nào. Người đã thu xếp và chờ đợi "Giờ của Người" đến thế nào. Tâm hồn Người hằng ý thức và rao giảng về ngày cuối cùng làm sao. Trong bữa tiệc ly, Người đã nói với các môn đệ về cái chết gần kề của Người thế nào và cuối cùng, làm sao Người đã muốn cái chết của Người được luôn luôn nhắc nhở bằng cách lập phép Thánh Thể: "Mortem Domini annuntiamus donec venias: các con loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Chúa lại đến".

"Một hiện tượng nổi bật hơn cả: "Tradidit semetipsum", Người đã tự hiến mình vì tôi, cái chết của Người là một hy tế Người chết vì kẻ khác; Người chết vì chúng ta. Sự cô đơn của cái chết Người được tràn ngập bằng sự hiện diện của chúng ta, được thấm nhuần tình thương "Dilexit Ecclesiam". Người đã yêu thương Hội Thánh (xem Huyền Nhiệm Chúa Giêsu, của văn hào Pascal). Cái chết của Người mạc khải tình yêu của Người đối với các môn đệ: "In finem dilexit", Người đã yêu thương đến cùng. Mãi đến giây phút cuối cùng của cuộc sống trần gian, Người đã đưa ra một mẫu gương cảm động về tình yêu khiêm tốn và vô bờ bến (xem việc Người rửa chân cho các môn đệ). Người lấy tình yêu của người làm thành định mức cho ta so sánh và biến thành giới luật cuối cùng. Cái chết của Người là một giao ước của tình yêu. Ta phải ghi lòng tạc dạ điều ấy.

"Vì thế, tôi cầu xin Chúa ban cho tôi ơn được dâng cái chết sắp đến của tôi làm thành một món quà tình yêu trao ban cho Hội Thánh. Tôi nói được rằng là tôi đã luôn luôn yêu mến Hội Thánh; chính tình yêu ấy đã lôi kéo tôi ra khỏi tính ích kỷ hẹp hòi và man rợ của tôi. Tình yêu ấy đã hướng dẫn tôi phục vụ Hội Thánh. Tôi cảm nghiệm được rằng chính vì Hội Thánh, chứ không phải vì ai khác mà tôi đã sống. Nhưng tôi muốn Hội Thánh biết điều ấy; tôi muốn có can đảm để nói điều ấy với Hội Thánh như một niềm tâm sự tự đáy lòng mà người ta chỉ có can đảm nói lên trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời thôi. Sau hết, tôi muốn hiểu biết Hội Thánh cách hoàn toàn: trong lịch sử, trong ý đinh của Thiên Chúa, trong cùng đích, trong cơ cấu phức tạp, toàn thể và duy nhất, trong bản chất nhân loại bất toàn, trong những khốn khổ và đau thương, trong những yếu hèn và khốn nạn của một số đông con cái, trong những hiện tượng ít thiện cảm và trong sự cố gắng liên lỉ để trung thành, để thương yêu, để nên hoàn thiện và đầy bác ái.

"Nhiệm Thể Chúa Kitô ơi, tôi muốn hôn kính, bái chào và yêu thương nhiệm thể nơi mỗi thành phần tạo thành nhiệm thể; nơi mỗi Giám mục, mỗi Linh mục đang phục vụ và hướng dẫn nhiệm thể, nơi tất cả mọi tâm hồn sống với nhiệm thể, làm vinh danh nhiệm thể. Chết đi, tôi không rời bỏ và ra khỏi nhiệm thể, ngược lại, tôi càng hiệp nhất với nhiệm thể vì cái chết là một bước tiến lên trong sự hiệp thông với các thánh.

"...Hỡi những anh em, xin hãy hiểu tôi; tôi yêu mến tất cả anh em với tình yêu tràn đầy của Chúa Thánh Linh mà tôi là người thừa tác có nhiệm vụ làm cho anh em được tham dự vào. Trong tinh thần ấy, tôi hiểu biết anh em; trong tinh thần ấy tôi kính chào anh em, tôi chúc lành cho anh em tất cả. Và riêng anh em, những người thân tình nhất, yêu quý nhất của tôi, an bình cho anh em. Và với Hội Thánh, tôi biết nói gì đây? Mọi sự tôi được đều do Hội Thánh. Nguyện xin phúc lành của Thiên Chúa ở với người; người hãy ý thức bản chất và sứ mệnh của người, hãy thấu hiểu những nhu cầu cần thiết và sâu xa của nhân loại; hãy tiến lên trong sự khó nghèo, nghĩa là trong tự do, dũng cảm và tha thiết yêu mến Ðức Kitô. Amen - Chúa đến - Amen".

Cuối một đời Giáo Hoàng với nhiều phong ba bão táp nhưng cũng nhiều thành tựu rất tốt đẹp, một sự nghiệp rất lớn lao, Ðức Phaolô VI đã suy niệm về sự chết với những tâm tình khiêm tốn, yêu thương, ý thức sứ mạng và liên lỉ kết hợp với Chúa Kitô như thế đó.

Ngài lại còn muốn nên giống Chúa Kitô trong cách chết: "Tôi muốn được chết nghèo. Về mộ phần, xin chôn tôi ngay trong lòng đất trơn, với một phiến đá đơn giản để ghi chỗ và kêu gọi lòng đạo đức của các tín hữu. Ðừng xây đài kỷ niệm cho tôi...

"Xin dẹp bỏ mọi thứ trang trí hiện được dành cho các tang lễ Giáo Hoàng và thay vào đó bằng một đồ đơn mọn và đạo đức...

"Tôi xin nhắm mắt trên mảnh đất đau thương, bi thảm và kỳ diệu này. Xin gởi đến tất cả mọi người lời chúc lành cuối cùng của vị Giáo Hoàng trước khi ra đi".

8. Bức thư gởi cho chính mình

* Biết trần gian là nơi tạm trú, sao con còn bo bo dành cho được sở này, chức kia, tiếc nuối chiếc bàn, chiếc ghế...? Con sẽ mang nó theo vào Thiên Ðàng "hưởng phúc đời đời" sao? Phi lý và điên khùng! (ÐHV 672).

* Ðừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đổi "của thiệt" lấy toàn "đồ giả" (ÐHV 676).

* Luxia, Yaxinta, Phanxicô đã trông thấy hỏa ngục vô cùng rùng rợn kinh khủng và không bao giờ quên được cảnh tượng ấy. Hãy tin lời Ðức Mẹ! Ðừng nhắm mắt không tin có hỏa ngục để rồi một hôm mở mắt thấy mình trong hỏa ngục (ÐHV 683).

Alexi là một thanh niên vui tươi, hâm mộ thể thao, âm nhạc, đồng thời cũng là một tông đồ nhiệt thành và rất thực tế. Năm 25 tuổi, anh viết cho mình một bức thư, bỏ vào phong bì đề tên tuổi hẳn hoi, bên dưới có ghi: "Sẽ mở đọc vào năm tôi đúng 60 tuổi". Bức thư được anh để ngay trên bàn viết, dưới chân cây Thánh giá nhỏ bằng gỗ.

Ngày tháng như chiếc thoi đưa, thấm thoát anh Alexi đã trở thành cụ già 60, đầu tóc bạc phơ. Vào đúng ngày sinh nhật thứ 60, cụ Alexi mời con cháu bạn bè đến chung vui trong một tiệc trà thân mật.

Sau bữa tiệc, cụ mở ra trước mắt mọi người lá thơ chính tay cụ đã viết 35 năm về trước. Tuy đã lớn tuổi, giọng cụ vẫn còn "phong độ", ai cũng nghe được rõ ràng từng tiếng:

"Bạn thân mến,

"Mừng kỷ niệm 60 năm sinh nhật của bạn! Kể từ hôm nay bạn bắt đầu bước đi trên một đoạn đường mới. Sáu mươi tuổi đã qua là kể như đời bạn đã xế chiều. Dù bạn vẫn còn khỏe, nhưng sức dẻo dai đã kém thua trước nhiều lắm. Bạn hãy bảo vệ sức khỏe để còn đóng góp tích cực vào phúc lợi chung.

"Bạn hãy biết ra đi, biết rút lui cách nhẹ nhàng và nhường chỗ cho đàn em trẻ hơn bạn, có khả năng thể xác và tinh thần hơn bạn.

"Nhưng không phải rút lui để rồi cầu an, nhàn hạ. Bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm của 60 năm trước đầy nụ cười và nước mắt của bạn cho đàn em. Và bạn hãy sung sướng khi thấy họ thành công hơn bạn, vì nhờ họ, Thiên Chúa được vinh danh hơn.

"Bạn hãy tiếp tục dấn thân cho đến hơi thở cuối cùng, theo sức bạn, theo tuổi bạn. Bạn hãy chuộc lại những thời giờ bạn đã lãng phí trong suốt 60 năm qua. Hãy kiểm điểm trước mặt Chúa, hãy rút kinh nghiệm từ quá khứ. Hãy cảm tạ Chúa và sám hối trước mặt Người. Bạn hãy dành phần còn lại của cuộc đời bạn để làm một việc gì cho Chúa, một việc mà giờ đây Chúa đang mời gọi bạn cộng tác dấn thân.

"Bạn đừng quên rằng bạn đang tiến về nhà Cha, mỗi phút một gần hơn. Bạn hãy sẵn sàng, đừng bám víu vào của cải trần gian, vào địa vị. Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời bạn, đẹp lòng Chúa và vui lòng gia đình, bè bạn trong mọi sự.

"Hãy dứt khoát, hãy quyết tâm mãnh liệt. Hãy thực hiện nghiêm túc. Hãy kết hợp với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse bạn Ngài.

"An bình và ơn sủng của Chúa ở cùng bạn.

"Ngày sinh nhật thứ 25 của Alexi"

Ðọc xong bức thư, cụ Alexi nói tiếp: "Cách đây 35 năm, tôi ngại rằng khi đã 60 tuổi, tôi sẽ nghĩ mình vẫn còn sức, sẽ bám víu vào địa vị, vào của cải... nên tôi đã viết bức thư này cho tôi. Hôm nay tôi tha thiết xin con cháu, bạn bè cầu nguyện cho tôi thực hiện những gì Chúa muốn trong giây phút hiện tại này".

9. Một tấm gương hấp hối

* Con cảm thấy an ủi vì đấng đoán xét con là cha nhân từ của con; Ngài càng chí công, con càng vững lòng, vì Ngài xử theo sự yếu đuối của con, nhưng đừng lạm dụng lòng nhân lành Chúa để khuyến khích mình liều lẫn trong tội lỗi. (ÐHV 680).

* Chúa gọi con làm thánh, nếu con chấp nhận vào luyện ngục, con đã phụ tình yêu của Chúa. (ÐHV 681).

Không một cơn hấp hối nào có thể tránh được đau khổ về phần xác cũng như lo lắng trong tâm hồn. Chị thánh Têrêxa đã đơn sơ và tự nhiên bước vào giây phút ấy. Ta hãy dõi theo tấm gương thánh thiện của chị. Lúc sức khỏe đã đến hồi hao kiệt, mãi tới ngày áp qua đời, chị Têrêxa vẫn còn muốn ở một mình ban đêm. Thỉnh thoảng chị phụ trách nhà liệt ghé vào thăm chị. Lần nọ, thấy chị chấp tay trên ngực, mắt thì ngước lên trời, chị coi nhà liệt bèn hỏi:

- Chị làm gì thế" Phải nhắm mắt ngủ đi chứ!

- Chị ơi em đau quá, không thể ngủ được nên em cầu nguyện.

- Chị cầu nguyện gì nữa?

- Em chẳng cầu xin gì, em chỉ yêu mến Chúa thôi!

* * *

Thỉnh thoảng chị Thánh lại thốt lên:

- Ôi, Thiên Chúa tốt lành dường nào... Thật Ngài thương xót và nhân từ lắm mới ban sức cho con chịu đau khổ thế này.

Chiều hôm ấy, chị trao cho Mẹ Bề trên một mảnh giấy viết bằng bút chì có những dòng chữ run rẩy như sau:

"Lạy Chúa con, Chúa đối xử với con là lễ mọn tình yêu cách nhân từ lắm! Bây giờ Chúa dung hòa những đau đớn thể xác với những cơ cực linh hồn. Tuy dù con chưa có thể nói: Cơn phiền giờ hấp hối đã bao vây tôi tứ phía, nhưng với tất cả lòng biết ơn, con xin kêu lên rằng: con đã xuống tới vực u ám sự chết, song con không e sợ gì vì Chúa hằng ở với con".

Mẹ Agnès de Jésus bảo Têrêxa:

- Có mấy chị tưởng con sợ chết lắm!

- Ðiều ấy rất có thể, chị thưa, con không dám tự tin đâu, con vẫn nhận mình hèn hạ yếu đuối, nhưng hiện giờ đây con cứ hưởng tâm tình vui vẻ Chúa ban cho đã sau định thể khác, cũng còn giờ mà vui chịu cách khác. Cha tuyên úy nhà dòng hỏi con bằng lòng chết chăng, con đã thưa cha rằng: "Thưa cha con trộm nghĩ chỉ phải cam lòng mà sống, chứ được chết thì con vui mừng lắm!" Mẹ ơi, nếu mẹ thấy con phải đau đớn quá, và dù lúc tắt hơi con cũng không tỏ dấu gì vui, mẹ cũng đừng buồn phiền nhé! Chúa chúng ta chẳng chết vì tình yêu sao? Mà mẹ xem đấy, giờ hấp hối của Chúa đã thế nào!

...Ðã mấy tuần lễ qua, Têrêxa đau đớn cơ cực không thể ngồi dậy được, nhưng hôm nay, lúc hai giờ rưỡi chiều ngày 30.9.1897, chị ngồi lên được và kêu:

- Mẹ ơi, chén đắng đã đến đầy miệng rồi! Không bao giờ con dám tưởng mình có thể chịu đau khổ tới chừng này. Con chỉ có thể hiểu rằng: Con chịu được nỗi đau đớn này là bởi lòng con rất tha thiết phần rỗi linh hồn anh chị em.

Một chốc sau, Têrêxa lại lặp đi lặp lại nhiều lần như sau:

- Mọi lời con đã viết về lòng ao ước chịu đau khổ là thật hết. Con không hối hận vì đã hiến thân tế lễ tình yêu Chúa.

Rồi chị thưa Mẹ Bề trên:

- Mẹ ơi, xin Mẹ giúp con dọn mình chết lành!

- Con ơi, con đã rất sẵn sàng để ra trước tòa Chúa rồi, vì xưa nay con đã hiểu nhân đức khiêm nhường lắm!

- Vâng, con biết thế, linh hồn con chỉ ước ao tìm sự thật của lòng khiêm nhường!

Bốn giờ rưỡi chiều, bệnh bắt đầu chuyển qua cơn hấp hối, Têrêxa thấy chị em vào phòng bèn mỉm cười cách âu yếm, chào và cám ơn chị em, rồi hai tay rời rạc nắm lấy Thánh giá. Mồ hôi toát ra đầy mặt, chị run rẩy cả mình.

Khi Nhà Dòng đánh chuông kinh tối, chị nhìn lên Mẹ Maria cách âu yếm. Ðến bảy giờ vài phút, chị quay lại thưa mẹ Bề trên:

- Thưa Mẹ, phải đây là giờ hấp hối? Con sắp chết ư?

- Phải, hỡi con, giờ hấp hối đấy; nhưng Chúa muốn con hy sinh ít phút nữa.

- A! Vâng... vâng... con xin vui lòng chấp nhận!

Vừa dứt lời, Têrêxa ngửa mặt lên nhìn ảnh Chuộc tội và than thở:

- Ôi.. Con mến Chúa!... Lạy Chúa con... con... mến... Chúa... lắm!!!

Ðoạn Têrêxa gục đầu qua bên phải mà thiếp đi. Rồi bỗng dưng, chị ngửa mặt lên như có một tiếng mầu nhiệm gọi, mắt mở ra, gương mặt sáng láng bình an vui vẻ lạ thường, đăm đăm nhìn ảnh Mẹ, lâu chừng năm phút... và linh hồn bay về cùng Chúa.

10. Ðức Gioan XXIII trước ngưỡng cửa đời đời

* Người lạc đường, thất vọng; người không biết đích, vô vọng; người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha nhân từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng (ÐHV 664).

* Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn (ÐHV 670).

Ðức Gioan XXIII luôn luôn chuẩn bị để ra trước toà Chúa. Ngài đã để lại bốn bản di chúc được viết trong các kỳ tĩnh tâm:

1- Bản thứ nhất vào năm 1939-1945.
2- Bản thứ hai làm tại Venise 29.6.1954.
3- Bản thứ ba làm tại Castelgandelfo ngày 12.9.1961, lúc đang là Giáo Hoàng.
4- Bản thứ tư, gửi dòng họ Roncalli, làm tại Vatican ngày 3.12.1961.

Chúc thư sau cùng này được ngài viết cách đơn sơ, thân tình như sau:

"Thăm em Severo,

"Hôm nay bổn mạng em, thánh Phanxicô Xaviê..., anh dùng máy chữ mới, đánh thư này gửi về em, chứng minh dù đã già 80 tuổi, anh vẫn tiếp tục phục vụ Chúa và Hội Thánh.

"Thư này cho em, anh cũng muốn là tiếng nói chính thức với hai em trai Alfredo, Giuseppino, các em gái, các em dâu và các cháu sau này. Dù bận việc, dù đang quy hướng về thế giới, anh vẫn không quên các em, các cháu trong nhà. Các em không còn đến được với anh như xưa, nhưng qua Ðức Ông Capovilla, các em cứ nói tất cả, và anh sẽ nhận được tin tức đầy đủ.

"Các em đều biết: từ ba năm qua, nghĩa là từ khi anh làm Giáo Hoàng, anh không thể biên thơ riêng cho ai, dù là người nhà, các em thông cảm! Tự hãm mình như vậy, tức là vinh dự lớn lao cho chúng ta, và các em biết rằng lòng anh quý yêu gia đình dạt dào không thể tưởng tượng.

"Những cuộc lễ, lời chúc tụng tuổi 80 của Giáo Hoàng đã qua. Anh chỉ thích được chúc tụng cám ơn Thiên Chúa đã và sẽ gìn giữ anh tới cùng.

"Do lòng Chúa thương, tên dòng họ Roncalli đã được toàn thể giáo giới yêu quý. Các em hãy tiếp tục ở khiêm tốn, khiêm tốn như thế. Người đời chỉ biết có tiền, chức vị, lạc thú với bất cứ giá nào, dù man rợ với nhau...

"Nhờ em nói lại với tất cả bà con xa gần, mà giờ này anh không biết rõ:

"Dòng họ Roncalli hãy thương yêu đoàn kết với nhau. Anh không viết thư được cho từng người, vì, đúng như em Giuseppo nói: Anh là Giáo Hoàng, là người tù hạng sang không được làm những gì mình muốn.

"Ðặc biệt anh thương những em đang nghèo, đang khổ nhất trong các em... khổ đến nỗi phải di cư ra thành Milan để kiếm công ăn việc làm.

"Các em khổ, vì đôi khi kẻ thiếu nhận xét đã bảo: Có anh làm Giáo Hoàng mà dòng họ vẫn nghèo nàn, tình trạng xã hội không được đổi thay. Trái lại, các em nên biết rằng nhiều người hiểu Giáo Hoàng, hiểu rằng giáo hoàng, con của những người dân quê chất phát nhưng khả kính, rất yêu thương bà con dòng họ; nhiều Giáo Hoàng trước đây cũng xuất thân từ gia đình nghèo như anh; vinh dự của Giáo Hoàng là đã giúp gia đình mình như đã vì bác ái mà giúp bất cứ gia đình nghèo nào khác. Ðó là tước hiệu danh dự của Giáo Hoàng Gioan và của dòng họ Roncalli mà nhiều người đã hiểu và quý mến.

"Anh có chết, nhiều kẻ sẽ ca tụng anh như anh đã ca tụng Thánh Piô X: ngài sinh nghèo và chết nghèo.

"Anh đã 80 tuổi, các em cũng già với anh, can đảm lên! Nơi gường anh có ảnh mồ mả của ông nội, của bác Hai, của Ba má, của ba chị Maria, Ancilla, Têrêxa, của em Giovanni và cháu Enrica. Ðẹp thay cả một đoàn linh hồn đang chờ đợi và cầu nguyện cho chúng ta...!" Anh, Gioan XXIII, Giáo Hoàng.

Ngài đã nhìn giờ Chúa gọi thế nào?

Ngày lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời 15.8.1961, ngài viết trong nhật ký:

"...Nay đã 80 tuổi, con đã đến ngưỡng cửa của "cái già" Chúa nói. Con sẵn sàng hy sinh không hạn chế, dù là mạng sống và nhận lấy cái chết như ngưỡng cửa đưa vào cõi hằng sống. Ðây, con giơ tay lên, đôi tay đã yếu và run rẩy, để kẻ khác mặc áo và dẫn đi. Còn cái "nơi con không muốn tới", cái đó không có, vì chính Chúa mở lối; con sẽ "theo Chúa trên các nẻo đường Chúa đi" (Mt 8,19), dù là đi đến chỗ hiến tế, khổ hình và chết, cái chết bảo đảm cho số phận đời hạnh phúc.

"Lạy thánh Giuse, vị bảo trợ đặc biệt của người sắp chết với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu và Mẹ Maria mà Ngài đã có phúc đồng hành khi còn sống, con xin kết thúc trang ghi lại cuộc cấm phòng bằng câu kết mà Hội Thánh hát mừng Ngài: xin Ba Ngôi Chí Cao tha thứ cho kẻ nguyện cầu. Vì công lao của Thánh Giuse, xin cho con vào thiên quốc, để chúng con được mãi mãi lặp lại bài ca cảm tạ của lòng chúng con tri ân. Amen".

11. Bức thư trước giờ hành quyết

* Nghe tiếng cha mẹ đến, đứa bé ở nội trú bỏ tất cả, không tiếc một cái gì để chạy theo cha mẹ. Con đừng dính bén bất cứ đồ vật gì nơi tạm trú này (ÐHV 671).

Linh mục Trochu đã viết một cuốn sách rất công phu về Chân phước Ven (Thánh Théophan Vénard). Trong sách đó có ghi lại rằng: đang lúc bị án tử hình vì đức tin và bị giam tại Hà Nội chờ ngày trảm quyết, thánh Ven đã viết nhiều bức thư nhờ giáo dân chuyển về cho gia đình. Trong số các thơ ấy, có mấy dòng sau đây, được thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng (là người bảo trợ tinh thần cho thánh nhân) chọn làm như của chính mình vậy:

"Thế gian chẳng còn gì làm vui sướng đời con nữa. Tâm hồn con đã được cởi mở rộng rãi. Những cái người ta kêu là hạnh phúc ở trên đời, con cho là rơm rác hết. Lòng trí con đang bay về cõi thiên thai. Thời gian sắp mãn cuộc. Hồn con bình lặng như mặt hồ lặng lẽ hay như vòm trời xanh dịu. Con chẳng còn tiếc xót gì ở kiếp phù trần, chỉ khát khao mong mỏi về uống nước trường sinh cõi phúc...

"Không lâu đâu! Linh hồn con sắp được từ giã thế gian rồi. Cuộc đày đọa sắp qua, những ngày giao chinh sắp hết. Con lên thiên đàng! Con đi đến chốn an nghỉ đời đời của các thánh, nghe những nhạc điệu du dương tai chưa từng nghe, ngắm những sự tốt đẹp mắt chưa từng ngắm, vui hưởng hoan lạc trái tim chưa từng hưởng... Nay con sắp đến giây phút mà ai ai cũng thiết tha mong đợi. Quả thật Chúa đã chọn kẻ bé mọn để mỉa mai những kẻ quyền hành thế gian. Con không dám cậy sức riêng con, một chỉ cậy sức Ðấng đã đứng trên Thánh giá mà chiến thắng mọi quyền hành hỏa ngục.

"Con là hoa xuân, nay Chủ vườn muốn hái đem về làm cảnh. Chúng ta hết thảy là hoa Chúa vun trồng trong vườn thế gian, sẽ có ngày Chúa sẽ hái về hết, nay hoa này, mai hoa khác, chầy kíp gì cũng xong cả. Thân con là đoá hoa phù dung, dám xin mạn phép hồi hương trước.

"Hẹn một ngày kia chúng ta sẽ cùng gặp nhau, tay bắt mặt mừng trên Thiên đàng, hân hoan trong vinh phúc trường cửu".

Ngày 2.2.1861, thánh Ven gục ngã dưới lưỡi gươm của đao phủ tại pháp trường Cầu Giấy (Hà Nội) lúc vừa 34 tuổi. Ðầu ngài bị ném xuống sông mãi hai tuần sau ngư phủ mới tìm thấy. Ai tin được trên đây là bức thơ tạm biệt gia đình của một tử tội!

(Còn tiếp)

Tác giả: FX. Nguyễn Văn Thuận

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây